thể thực hiện được bằng cách giảm giá. Nếu các nhà cạnh tranh trên thế giới, hầu
hết là trong thế giới thứ ba, không muốn mất thị phần của họ, họ không có cách
nào khác hơn là cũng phải giảm giá tương đương. Trong thế giới phát triển, áp
lực cạnh tranh đẩy giá xuống xuất phát từ Hàn Quốc và Nhật Bản.
Thu hẹp hoạt động và tìm nguồn cung ứng bên ngoài công ty cũng có vai trò
trong việc làm giảm giá. Điều bình thường đối với các công ty Hoa Kỳ là khi ký
hợp đồng với những nhà cung ứng, họ đều đặt vấn đề giảm giá hàng năm. Thí dụ
như các nhà sản xuất bộ phận rời ô-tô đã ký hợp đồng với các nhà sản xuất ô-tô
lớn với yêu cầu giảm giá 3% mỗi năm. Tìm nguồn cung ứng bên ngoài có vai trò
lớn trong các hợp đồng hắc búa này vì dễ cứng rắn về giá đối với những nhà cung
ứng bên ngoài hơn là đối với các nhà cung ứng nội bộ. Nếu những nhà cung ứng
bên ngoài không có lãi, đó là việc của họ. Nhưng nếu một nhà cung ứng nội bộ
không có lãi, công ty có lãi ở bộ phận này nhưng lại lỗ ở bộ phận khác và như
vậy không làm tăng lợi nhuận. Thủ thuật này đã làm cho giá ô-tô tại Hoa Kỳ
giảm xuống trong năm 1998, lần đầu tiên kể từ cuộc Đại khủng hoảng.
Ngành sản xuất, khai khoáng và xây dựng có thể dễ dàng giữ giá thấp vì họ có
một lực lượng dự bị công nhân có lương thấp rất lớn. Nhiều công nhân hiện đang
làm việc trong ngành dịch vụ sẽ hân hoan từ bỏ công việc có lương thấp để
chuyển sang công việc có lương cao hơn trong các ngành này. Kết quả là mặc dù
tỷ lệ thất nghiệp thấp chưa từng thấy vẫn không làm tăng lương và lạm phát như
trước đây.
Tỷ lệ thất nghiệp đã tạo ra những chỉ dẫn sai lầm về sự căng thẳng của thị
trường lao động và áp lực tăng lương. Trong năm 1994, tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa
Kỳ là 6% và nhiều nhà kinh tế, kể cả những nhà kinh tế của Hội đồng Dự trữ
Liên bang, cho rằng lạm phát sẽ tái phát. Điều này đã không xảy ra, đơn giản là
vì còn rất nhiều lao động dự bị đang chờ việc làm hơn là con số thống kê cho
thấy. Từ năm 1994 đến 1998, hai triệu lao động đã ra khỏi danh sách những
người thất nghiệp nhưng số nhân dụng tăng đến 9 triệu người. Điều này xảy ra là
vì có 7 triệu công nhân mới tham gia lực lượng lao động mặc dù số người đã
trưởng thành tại Hoa Kỳ tăng rất chậm. Một số lao động dự bị là những người
nhập cư (hợp pháp và không hợp pháp) và một số là người sinh ra tại Hoa Kỳ
nhưng không thuộc diện được Bộ Lao động xếp là thất nghiệp nhưng họ lại sẵn
sàng nhận việc làm khi tìm được việc. Con số thống kê thất nghiệp chính thức 6%