mức lương thấp, các doanh nghiệp được hưởng lợi từ việc vận hành các phương
tiện với tỷ lệ vốn / lao động thấp. Làm việc với vốn ít hơn, năng suất lao động sẽ
giảm và phải thuê mướn nhiều lao động hơn. Hoa Kỳ đã chọn giải pháp thứ hai
trong lúc châu Âu không chọn giải pháp nào cả.
Những nhóm như Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế thường xuyên khuyến
cáo Tây Âu nên xử lý vấn đề thất nghiệp cao bằng cách duy trì sự năng động của
thị trường lao động - một cách nói chính trị về giảm lương. Giả sử Tây Âu đưa ra
quyền cho nghỉ việc không giới hạn theo kiểu Hoa Kỳ - không thông báo trước,
không bồi thường và không cần lý do. Ngay ngày đầu tiên của chế độ mới này,
hàng triệu công nhân của Tây Âu sẽ bị đuổi việc do các công ty loại trừ được
những công nhân không cần thiết trên bảng lương của họ và những người mà họ
đã muốn cho nghỉ việc từ lâu. Các doanh nghiệp châu Âu có thể cho nhiều công
nhân nghỉ việc hơn số họ muốn. Họ sẽ nghi ngờ, có thể đúng, rằng quyền đuổi
việc của họ sẽ không kéo dài được lâu.
Trong ngắn hạn, nạn thất nghiệp sẽ tăng đáng kể tại châu Âu nếu thị trường lao
động uyển chuyển kiểu Hoa Kỳ được áp dụng đột ngột. Thất nghiệp chỉ giảm nếu
có sự cạnh tranh tìm việc làm giữa những công nhân phát xuất từ tỷ lệ thất nghiệp
cao dẫn đến giảm mức lương thực tế. Với mức lương thấp hơn, doanh nghiệp dần
dần hướng đến các hình thức sản xuất không sử dụng nhiều vốn đầu tư để chuyển
sang doanh nghiệp thâm dụng lao động mà họ không thể hoạt động có lợi ở mức
lương hiện tại. Thí dụ, với mức lương thấp hơn, Hoa Kỳ sử dụng nhiều nhân viên
bảo vệ và kiểm tra hơn trong các bãi đậu xe, trong lúc với mức lương cao châu
Âu có lợi hơn để sử dụng các cửa tự động và thẻ nhận diện.
Toàn bộ tăng trưởng về nhân dụng của Hoa Kỳ đã xảy ra trong khu vực dịch
vụ. Dịch vụ được sử dụng như một máy tạo việc làm, nhưng với một mức lương
thấp hơn mức bảo hiểm thất nghiệp của Tây Âu. Nó tạo ra những công việc mà
những người Tây Âu không muốn và không nhận. Bất cứ sự tính toán nào về
mức lương mà Tây Âu muốn cắt giảm để duy trì tình trạng toàn dụng, nếu đây là
biện pháp duy nhất phải làm, sẽ đưa đến một con số rất lớn.
Một câu trả lời khác cho tình trạng thất nghiệp cao của châu Âu là châu Âu
sống trong một thế giới giảm phát trong giữa thập kỷ 1990, và những chính sách
tiền tệ có thể đã thích hợp với thế giới lạm phát vào thập kỷ 1970 và đầu thập kỷ
1980 thì bây giờ không những không cần thiết mà còn phản tác dụng. Ngân hàng