với phép nước. ) -Chư vị, Phạm cử nhân, tại hạ không bỏ sót chữ nào chứ
hả?
Trong đình Thương Lãng yên lặng như tờ, mọi người đều kinh ngạc đến
ngẩn ngơ, tất cả họ đều đang nghĩ:
-Chẳng lẽ bài chế nghệ thi hương của gã Phạm Văn Nhược chính là
“hàng nhái” thật ư?
Lục Thao thì vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, Trương Nguyên quả nhiên
có chứng cứ, bỗng nghe thấy bên ngoài đình có người ho khan một tiếng,
tiếng ho khan này khá quen thuộc, Lục Thao quay đầu nhìn ra, thấy vợ
mình Nhược Hi và Mục Chân Chân hai người đang đứng dưới một bồ hòn
ở ngoài, thấy y nhìn qua, Nhược Hi khẽ vẫy tay gọi.
Lục Thao đứng dậy, đang tính bước ra ngoài thì nghe Trương Nguyên
lại lên tiếng nói:
-xin chư vị phân tích kỹ sự khác biệt của hai bài chế nghệ này.
Mọi người vẫn trầm lặng không lời, ai nấy đều đưa mắt nhìn nhau, xong
lại quay ra nhìn Phạm Văn Nhược.
Gã Phạm Văn Nhược kia thì lúc này mặt đã đỏ như trái gất, gân xanh
gân đỏ nổi cả lên, bàn tay đang cầm quyển sách cũng bắt đầu run lên bần
bật, gã khổ luyện thời văn, văn chương khá dở gã đều phân biệt ra được, đề
“đại úy dân chí” trong “Đại học”, trong bài chế nghệ của gã bám xác vào
lấy đức làm “bản”, trị làm “mạt”, tự cho rằng mình đã phát huy triệt để,
không bỏ sót ý nào, nhưng hai vế sau của Trương Nguyên đọc ra lại phát
huy được ý tưởng khác đó là “tố tụng”, rõ ràng trên gã một bậc, ranh giới
phân minh, khai thác cái tuyệt diệu trong văn chương một cách triệt để,
nhìn từ góc độ cả bài viết, trước sau đều tương đồng, nhưng phần sau của
hai bài lại khác nhau, mà chỗ khác nhau đó lại cao thâm hơn bài của gã.