từ lâu lắm rồi và chút khó chịu vào lần trước chia tay chưa từng xảy
ra.
“Chào cô, Julia. Đêm qua cô ngủ đẫy giấc chứ?” Ông ta hỏi.
Tôi mỉm cười với cách nói có phần xưa cũ của ông.
“Ôi chao, đôi mắt cô long lanh thật diễm lệ! Hệt như cha cô! Bờ
môi đầy đặn và hàm răng trắng của cô cũng được thừa hưởng từ ông.
Mong cô thứ lỗi vì tôi cứ lải nhải mãi mấy lời này. Chẳng phải là tôi
ấu trĩ mà do sắc đẹp của cô khiến tôi không khỏi nhắc lại lời mình.”
Lời khen của ông ta khiến tôi ngượng ngùng. Chúng tôi đi xuống
phố, rẽ vào con đường mòn dẫn xuống sông. Hai bên rìa, cây cỏ mọc
um tùm, ra hoa tua tủa y như khu vườn ở khách sạn. Chúng tôi đi qua
những cây chà là, cây xoài và hàng chuối cao, trổ ra những nải vàng
ươm be bé. Không khí ấm áp có mùi hoa nhài tinh khôi xen lẫn trái
cây chín mọng.
Một tốp phụ nữ đang đứng dưới sông, nước cao đến đầu gối, họ vừa
giặt giũ vừa cất tiếng hát. Họ trải những chiếc áo cùng váy longyi đã
vắt kiệt lên đá để hong khô dưới ánh mặt trời. Vài người chào U Ba và
tò mò nhìn tôi. Chúng tôi băng qua cây cầu nhỏ bằng gỗ, trèo lên triền
đê bên kia sông, và men theo con đường mòn khá dốc. Tiếng hát ca
của các chị, các mẹ theo chúng tôi lên tận đỉnh dốc.
Chẳng hiểu tại sao, khung cảnh thung lũng lẫn đỉnh núi phía xa lại
khiến tôi bồn chồn. Quang cảnh thường thấy trên bưu thiếp này có gì
đó không đúng. Sườn núi lác đác vài cây thông non. Dưới đất là đám
cỏ cháy sém màu nâu.
“Trước kia, nhìn từ đây, ta sẽ chẳng thấy gì ngoài những rừng thông
bạt ngàn,” U Ba nói như đọc được suy nghĩ của tôi. “Song vào những
năm 1970, người Nhật đến đây rồi đốn hạ tất cả.”
Tôi những muốn hỏi tại sao họ lại cho phép và chẳng lẽ không có ai
kháng cự, nhưng lại thôi.
Chúng tôi nặng nề lê bước ngang dãy biệt thự kiểu Anh đổ nát cùng
những căn chòi âm u xiêu vẹo không cửa sổ, tường làm bằng rơm rạ.