Đi mãi đi mãi, cuối cùng chúng tôi dừng chân trước một ngôi nhà gỗ
hiếm hoi. Dựng bằng gỗ tếch xám đen, căn nhà sàn cách mặt đất
chừng mét rưỡi, mái lợp tôn, đằng trước có khoảng hiên nhỏ. Một con
lợn đang dũi đất phía dưới. Đàn gà chạy lung tung trong vườn.
U Ba dẫn tôi lên hiên nhà, bước vào gian phòng rộng có bốn cửa sổ
không lắp kính. Nội thất trông như đồ cũ truyền lại từ thời thuộc địa.
Lò xo chĩa ra tua tủa trên chiếc ghế bành bàng da nâu đặt bên cạnh hai
đi văng tàn tạ, có một bàn uống nước và một chiếc chạn bếp tối màu.
Trên bức tường phía sau ghế treo bức tranh sơn dầu vẽ Tháp London.
“Cô ngồi chơi. Để tôi đi pha chút trà,” U Ba nói và biến mất.
Đang dợm ngồi xuống, tôi bỗng nghe thấy âm thanh vo ve kì lạ.
Một đàn ong nhỏ bay vào từ cửa sổ, băng ngang căn phòng đến chạn
bếp để ngỏ rồi lại bay ra. Lúc ấy tôi mới phát hiện tổ của chúng đang
lủng lẳng ở kệ trên cùng, to hơn quả bóng. Tôi cẩn thận lui về góc
phòng, ngồi xuống mà không dám cựa quậy.
“Tôi mong cô không sợ ong,” U Ba hỏi, ông trở lại với một ấm trà
và hai chiếc cốc trong tay.
“Tôi ngại ong bắp cày thôi,” tôi nói dối.
“Đàn ong của tôi không đốt đâu.”
“Ông phải nói chúng chưa đốt ai mới đúng.”
“Có gì khác nhau sao?”
“Ông dùng mật làm gì vậy?”
“Mật gì cơ?”
“Của đám ong ấy.”
U Ba nhìn tôi. “Tôi không đụng vào. Đấy là của đàn ong.”
Tôi dõi theo những con ong bay tới bay lui với ánh nhìn nghi ngại,
ông ta nghiêm túc à? “Vậy sao ông không dời tổ ong đi?”
Ông ta cười. “Vì sao tôi cần đuổi chúng đi? Chúng có làm hại gì tôi
đâu. Ngược lại, tôi còn thấy vinh dự khi ong chọn nhà tôi để cư ngụ.