này đối với anh thực sự quý báu và anh không muốn bỏ mất phút nào. Anh
nằm lắng nghe bước chân rón rén của con mèo Arkhiv, tiếng đồng hồ tích
tắc, tiếng thì thào của Tachiana với người vú già sau cánh cửa đóng. Rồi
những giọng nói im bặt, người vú già đã đi, những vệt sáng ở dưới cánh cửa
vẫn không tắt. Anh nghe thấy các trang giấy loạt soạt: chắc Tachiana còn
đọc sách. Anh đoán nàng thức cốt để gọi anh dậy cho kịp tàu. Anh muốn
nói với nàng rằng anh cũng không ngủ, nhưng anh không dám gọi.
Bốn giờ sáng, Tachiana khe khẽ mở cửa và gọi Nicôlai. Anh cựa mình.
- Anh dậy đi thôi, đến giờ rồi, - nàng nói - Tôi rất tiếc phải đánh thức
anh.
Tachiana tiễn anh ra ga khi thành phố đang yên giấc. Sau hồi chuông thứ
hai họ từ giã nhau. Tachiana đưa cả hai tay cho Nicôlai và nói:
- Anh nhớ viết thư nhé! Giờ đây chúng ta như người thân. Phải vậy
không anh?
Nicôlai không trả lời, anh chỉ gật đầu.
Mấy hôm sau, Tachiana nhận được một bức thư của Nicôlai viết ở dọc
đường:
"Tôi đã nhớ ra chúng ta gặp nhau ở đâu - anh viết - nhưng tôi không
muốn nói với chị khi còn ở nhà. Chị có nhớ Krưm năm hăm bảy không?
Mùa thu. Những cây tiêu huyền cổ thụ ở công viên Livađia. Trời u ám, biển
nhợt nhạt. Tôi đi theo con đường nhỏ tới Orêanđa. Trên chiếc ghế dài bên
đường có một thiếu nữ đang ngồi. Cô ta chừng 16 tuổi. Trông thấy tôi, cô ta
đứng dậy và đi về phía tôi. Khi chúng tôi đi ngang nhau, tôi liếc nhìn cô ấy.
Cô ta đi qua tôi rất nhanh, nhẹ nhàng, tay cầm một cuốn sách mở rộng. Tôi
dừng lại, nhìn theo cô ta rất lâu. Thiếu nữ đó là chị. Tôi không thể nhầm
được. Tôi nhìn theo chị và cảm thấy rằng người con gái vừa đi qua bên cạnh
tôi, người có thể làm tan vỡ cả đời tôi mà cũng có thể đem lại hạnh phúc