Chúng chia thành từng nhóm đi ầm ĩ vào rừng, súng đạn đủ có thể trang
bị cho một tiểu đoàn. Chúng sẵn sàng bắn vào tất cả những gì cử động
được. Chúng bám riết theo những con báo, không cần biết đó là những con
báo con hay báo cái đang có bầu, để sau đó chúng sẽ đứng chụp ảnh trước
mấy chục bộ da được đóng đinh treo lên một tấm ván trước khi bỏ đi.
Những thằng Mỹ ra đi, còn những bộ da ở lại bốc mùi hôi thối cho đến
lúc một bàn tay nhân từ nào đó gỡ chúng ra vứt xuống dòng nước. Những
con báo sống sót trả thù lại bằng cách moi ruột những con bò đói giơ xương
của dân khai hoang.
Antonio José Bolivar tìm cách hạn chế sự phá hoại của dân khai hoang.
Họ phá hoại rừng để dựng nên tác phẩm chủ yếu của loài người văn minh:
những sa mạc chết.
Rồi thú rừng càng ngày càng hiếm hơn. Những loài sống sót trở nên
khôn ngoan hơn. Cũng như người Shuars, chúng trốn sâu vào rừng trong
một cuộc thiên di không ai ngăn cản được về miền đông Amazon.
Đã có tất cả thời gian dành riêng cho mình, Antonio José Bolivar Proano
phát hiện ra ông biết đọc đúng lúc răng của ông bắt đầu hỏng.
Chúng bắt đầu làm cho ông bận tâm khi ông cảm thấy mồm mình có
mùi hôi, và có những cơn đau âm ỉ trong lợi.
Ông thường tham gia vào những buổi khám bệnh nửa năm một lần của
bác sĩ Loachamín, nhưng không bao giờ ông tưởng tượng nổi chính mình sẽ
ngồi trên ghế. Cho đến một ngày những cơn đau trở trở nên dữ dội không
thể chịu nổi, bắt buộc ông phải leo lên ngồi trên cái ghế của bác sĩ.
— Đơn giản thôi bác sĩ. Tôi cũng chẳng còn bao nhiêu cái răng. Tôi đã
tự nhổ những cái gây quá nhiều phiền toái cho mình, nhưng không nhổ
được những cái nằm sâu bên trong. Nó quá khó. Vậy bác sĩ cứ tự nhiên vặt