được nó rộng lớn đến như thế nào vì có quá nhiều cây. Ông đi dọc trên
những con đường đó và nghĩ cũng không đến nỗi tồi, và rồi hai tòa nhà
khác hiện lên trước mắt ông qua rặng cây, và hai tòa nhà nữa, và hai tòa nhà
nữa. Và họ có những trấn song trên cửa sổ, và thỉnh thoảng ông sẽ nghe
thấy một ai đó kêu lên ở đó.”
“Đừng có cường điệu sự việc lên như thế, Emily,” Howard nói. “Việc
đầu tiên phải làm là điện thoại đến bệnh viện và tìm hiểu xem chị ấy ở đó là
vì lý do gì?”
“Đã là mười một giờ đêm rồi. Ngoài ra, họ sẽ không bao giờ cho em
biết - một giọng nói xa lạ sẽ vang lên trên điện thoại. Chắc họ sẽ có nguyên
tắc về việc đó. Ông nên là một bác sĩ để...”
“Hay là một luật sư, có thể như vậy,” ông ta nói. “Thỉnh thoảng là một
luật sư cũng có ích vào một việc gì đó. Tôi sẽ tìm ra chẩn đoán của chị em
vào ngày mai, và tôi sẽ nói cho em biết vào tối mai. Được không? Còn bây
giờ thì đi ngủ thôi và đừng có hành động như một diễn viên nữa.”
Khi ông ta về nhà buổi tối sau đó, ông ta nói “nghiện rượu cấp tính.”
Rồi ông ta nói tiếp “Thôi nào, Emily, điều đó không quá tệ. Tất cả
những việc mà chị em cần làm là phải cấm rượu hoàn toàn và rồi họ sẽ thả
chị em ra. Nó không giống như ‘chứng hoang tưởng, tâm thần phân liệt,’
hay là một loại bệnh gì đó tương tự như vậy.” Chuyện xảy ra vào ngày thứ
hai. Đến thứ bảy trước khi Emily được tự do để có thể đáp chuyến tàu đến
Central Islip mang theo hai hộp thuốc lá (một hộp cho mẹ và một hộp cho
chị); trên sân ga cô vẫy một trong những lái xe taxi trông thật lôi thôi đang
mời chào quanh cô - dường như họ cũng kiếm được khá từ dịch vụ phí một
đôla để đưa khách đến bệnh viện và quay trở lại - và rồi cô rơi vào trạng
thái hoang mang của mê cung những cây và nhà.