rồi. Thượng bấtchính hạ tắc loạn, người ở đó nói Cận Đồ Hải cũng chẳng
phải loại ngườitốt đẹp gì, trước đây cũng suốt ngày bắt gà trộm chó, còn
từng lấy trộmxe đạp nhà hàng xóm.”
Tả Kình Thương nghe xong, đặt điện thoại di động qua một bên.
Chữ “Oan” ở mặt sau tờ báo vẫn khiến con mắt người ta nhức nhối như
trước.
“Em nói xem, người tên Cận Đồ Hải này, anh có nên gặp hay không?” Tả
Kình Thương hỏi.
Thư Tầm trầm ngâm một lúc, gật đầu nói: “Nên.”
“Lý do?”
“Hiểu biết của chúng ta về vụ án kia chỉ vẻn vẹn trong thông tin và hồ sơ
vụán nhưng chưa từng tìm hiểu ở phía Cận Đồ Hải, tại sao ông ta lại
khăngkhăng cho rằng con trai mình bị oan. Dường như ông ta đã ký thác hi
vọng lên người anh, nếu đã vậy, lời anh nói hẳn là ông ta sẽ chịu nghe
mộtchút.” Thư Tầm nghiêm túc nói, “Nguyên tắc mà anh đã giữ vững
nhiều năm‘sự thật là trên hết’, là để tội phạm phải chịu sự trừng phạt
thíchđáng. Nếu sự thật chứng minh Cận Á Cát thực sự giết người, vậy hắn
đãphải đền tội, tất cả đều vui mừng, anh có thể không cần quan tâm tới Cận
Đồ Hải nữa; còn nếu Cận Á Cát thực sự chết oan, lẽ nào anh chấp nhận để
hung thủ vui vẻ vì sự may mắn của mình, một khi nổi hứng lại tiếp tụcgiết
người?”
Tuy Tả Kình Thương không đáp nhưng nhìn vẻ mặt thì có thể thấy anh đã
đưa ra quyết định chắc chắn.
“Em hiểu Cận Đồ Hải.” Thư Tầm nói thêm, “Nếu hiện tại em có chứng cứ
chứngminh năm đó Tiểu Phóng bị anh đổ oan, em cũng sẽ cố gắng vì nó
mà lậtlại bản án như vậy.”