nghiêm trọng. Bruce Andrews, một sinh viên Đại học Harvard tham gia lấy
ý kiến công chúng, nhận thấy rằng hầu hết những người chống chiến tranh
có độ tuổi trên 50, người da đen và phụ nữ. Anh cũng phát hiện thấy trong
một nghiên cứu vào mùa xuân năm 1964, khi vấn đề Việt Nam chỉ là một
đề tài nhỏ trên các mặt báo, rằng 53% người được đào tạo đại học đồng
thuận với quyết định điều quân sang Việt Nam, trong khi chỉ có 33% người
học hết trung học sẵn sàng chấp nhận việc đó.
Dường như bản thân các phương tiện truyền thông bị kiểm soát bởi những
người được giáo dục cao hơn, thu nhập cao hơn, những người hung hăng
hơn trong chính sách quốc tế, các phương tiện đó có xu hướng tạo ấn tượng
sai lầm rằng tầng lớp lao động là những kẻ cuồng tín chiến tranh. Trong một
cuộc điều tra về người da đen và da trắng nghèo giữa năm 1968 tại miền
Nam, Lewis Lipsitz đã diễn giải một thái độ mà ông cho là điển hình: “Cách
duy nhất giúp người nghèo là hãy thoát ra khỏi cuộc chiến tranh vô nghĩa
với Việt Nam... Tiền thuế được dùng cho mục đích giết người và tôi không
nhìn thấy nguyên nhân hợp lẽ nào trong đó.”
Để xét đoán vấn đề này một cách rõ ràng, đơn giản nhất là xem xét xu
hướng phát triển nhanh chóng của phong trào phản chiến trong lính Mỹ −
những người đã tình nguyện gia nhập quân đội hay được tuyển hầu hết đến
từ nhóm người có thu nhập thấp trong xã hội. Trong lịch sử nước Mỹ từng
tồn tại những trường hợp binh lính phản đối chiến tranh: cuộc nổi loạn bị cô
lập trong Chiến tranh Cách mạng, từ chối tuyển quân giữa tình hình chiến
sự trong cuộc chiến với người Mexico, đào ngũ và bất bình trong Chiến
tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng trong vấn đề
Việt Nam, việc phản đối chiến tranh xuất phát từ binh lính và cựu binh trên
phạm vi lớn và hoạt động sôi nổi chưa từng thấy.
Hành động này bắt đầu bằng một vụ chống đối bị cô lập. Đầu tháng 6 năm
1965, tại Việt Nam, Richard Steinke, một sỹ quan thuộc Học viện West