tiếc nuối khi viết về một “sự bùng nổ bất chợt của sự đa cảm phản đối chiến
tranh” trong Hạ viện, họ nói rằng “Tình trạng thù địch chống chiến tranh
đột ngột phát triển rộng khắp trong các thành viên Đảng Dân chủ trong Hạ
viện, những người ủng hộ chính quyền đã chứng kiến tình trạng này ít hơn
việc phản đối Nixon như một câu trả lời đối với những áp lực bầu cử.”
Chỉ sau khi việc can thiệp quân sự Campuchia chấm dứt, và chỉ sau khi
hàng loạt trường đại học, cao đẳng trên toàn nước Mỹ phản ứng về cuộc
xâm lược đó, Quốc hội mới thông qua một nghị quyết với nội dung quy
định quân đội Mỹ sẽ không được điều sang Campuchia mà không có sự phê
chuẩn của Quốc hội. Và không chờ đến cuối năm 1973, khi những người
lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, Quốc hội đã thông qua một dự luật
giới hạn quyền của Tổng thống trong việc phát động chiến tranh mà không
có sự đồng ý của Quốc hội; thậm chí trong “Nghị quyết về Quyền lực Chiến
tranh”, Tổng thống tự mình có thể phát động chiến tranh, nếu trong vòng 60
ngày không có một tuyên bố nào từ Quốc hội.
Tháng 6 năm 1974, các sỹ quan quân sự và viên chức cấp cao của Bộ Ngoại
giao Mỹ, bao gồm cả Đại sứ Henry Cabot Lodge đã họp tại Honolulu.
“Rusk [Bộ trưởng Bộ Ngoại giao] thông báo rằng ý kiến dư luận về chính
sách Đông Nam á của chúng ta bị chia rẽ hết sức tồi tệ, vì thế mà Tổng
thống cần một sự khẳng định về việc ủng hộ.” Diệm đã bị thay thế bởi một
tướng tên là Khánh. Các nhà chép sử của Lầu Năm Góc viết: “Sau khi trở
lại Sài Gòn ngày 5 tháng 6, Đại sứ Lodge đi thẳng đến sân bay để gặp
Tướng Khánh... Nội dung chính trong cuộc nói chuyện với Tướng Khánh
của ông là gợi ý rằng trong tương lai, chính phủ Hoa Kỳ sẽ dọn đường ngay
lập tức dư luận tại Hoa Kỳ về những hành động chống lại miền Bắc Việt
Nam.” Hai tháng sau đã xảy ra Sự kiện Vịnh Bắc Bộ.
Ngày 2 tháng 4 năm 1965, một bản ghi nhớ từ giám đốc CIA John McCone
ám chỉ rằng việc đánh bom miền Bắc Việt Nam cần được tăng cường vì