trên nước Mỹ, và số tiền dùng để sản xuất mỹ phẩm dành cho phụ nữ mỗi
năm vào khoảng 2 tỷ đô-la – nhưng như thế vẫn chưa đủ. “Phụ nữ Mỹ vẫn
dành chưa đến một phần năm số tiền cần thiết để cải thiện sắc đẹp của họ.”
Sau đó ông đã đưa ra danh sách các công cụ thiết yếu phục vụ cho công
cuộc làm đẹp của phụ nữ hàng năm và phân chúng thành từng nhóm riêng
biệt: 12 lần chăm sóc tóc bằng phương pháp hấp dầu, năm 20 lần chăm sóc
da mặt, 26 lần tỉa lông mày, v.v...
Có vẻ như như cuộc đào thoát khỏi cuộc sống làm vợ, làm mẹ, khỏi bản
tính phụ nữ, công việc nội trợ, công cuộc làm đẹp, sự cô độc của người phụ
nữ đã được thực hiện một cách xuất sắc, khi những vai trò trong xã hội của
họ đang trở nên ngày càng cần thiết, dù là trong các ngành công nghiệp,
trong chiến tranh, hay trong những trào lưu của xã hội. Trong mỗi giai đoạn
người phụ nữ lại được giải phóng khỏi nhà tù đang giam giữ chính họ – một
loại nhà tù của công việc – một loại nhà tù của công việc – nhưng một khi
nhu cầu đó qua đi, người ta lại cố gắng đẩy họ trở lại vị trí vốn có mà họ
vẫn phải chịu đựng. Điều này là nguyên nhân dẫn đến việc họ phải đấu
tranh đòi sự thay đổi.
Hơn bao giờ hết, Chiến tranh thế giới thứ hai đã kéo nhiều phụ nữ ra khỏi
căn nhà của chính họ để tham gia vào các công việc phục vụ cho chiến
tranh. Tính đến năm 1960, khoảng 36% phụ nữ tuổi từ 16 trở lên – khoảng
23 triệu người – tham gia vào các công việc được trả lương. Tuy nhiên, mặc
dù 43% phụ nữ có con nhỏ ở độ tuổi đi học, song chỉ có 2% số trường mẫu
giáo là đủ để đáp ứng nhu cầu của các bà mẹ; số phụ nữ còn lại phải tự xoay
xở mọi thứ. Phụ nữ chiếm 50% số lượng người đi bầu cử, song đến tận năm
1967, số phụ nữ trong các cơ quan lập pháp chỉ khoảng 4% và tại các cơ
quan hành pháp là 2%. Thu nhập của người phụ nữ trung bình chỉ bằng một
phần ba thu nhập của đàn ông. Thái độ phân biệt đối xử với người phụ nữ
dường như vẫn không mấy thay đổi kể từ những năm 1920.