ủng hộ của “phe thứ ba”. Reagan nhận được khoản ngân sách viện trợ từ
một quỹ của Arap Saudi, ít nhất là 32 triệu đô-la. Một nhà độc tài ở
Guatemala đã lén lút cung cấp vũ khí cho lực lượng phản cách mạng. Israel,
quốc gia phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ, cũng bị buộc phải ủng hộ.
Năm 1986, một câu chuyện xuất hiện trên mặt tạp chí Beirut cho thấy Mỹ
đã bán một lượng lớn vũ khí sang Iran (quốc gia này được coi là kẻ thù).
Đổi lại, Iran cam kết sẽ thả các con tin đang bị những kẻ Hồi giáo cực đoan
bắt giữ ở Lebanon và lợi nhuận từ việc bán vũ khí sẽ được chuyển cho lực
lượng phản cách mạng để mua vũ khí.
Khi được hỏi về vấn đề này trong một cuộc họp báo tổ chức vào tháng 11
năm 1986, Tổng thống Reagan đã nói dối bốn điều: hàng gửi sang Iran bao
gồm một vài tên lửa chống tăng (thực tế con số đó là 2 nghìn), Mỹ không
vận chuyển vũ khí qua bên thứ ba, vũ khí không được đem lên bàn thương
lượng để đổi lấy con tin và mục đích của những hành động này là nhằm đi
đến đối thoại với những người Iran có quan điểm ôn hòa, trong khi đó, mục
đích thực tế còn lớn gấp đôi: thả tự do cho con tin, kiếm lợi nhuận từ việc
buôn bán vũ khí và giúp đỡ lực lượng phản cách mạng.
Một tháng trước đó, khi một chiếc máy bay vận chuyển vũ khí đến lực
lượng chống Iran bị đại bác Nicaraguan bắn rơi và phi công bị bắt, những
lời nói dối lại tiếp tục được tung ra. Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Elliot
Abrams và Bộ trưởng Ngoại giao Shultz đã tuyên bố rằng chiếc máy bay đó
“không hề có mối liên hệ nào với chính phủ Mỹ”. Song các bằng chứng
ngày càng cho thấy viên phi công bị bắt làm việc cho CIA.
Toàn bộ lực lượng chống lại chính phủ Iran đã trở thành một ví dụ hoàn hảo
cho hàng rào phòng vệ song song của quân đội Hoa Kỳ. Hàng rào thứ nhất
là phủ nhận sự thật. Nếu sự thật bị phơi bày, hàng rào thứ hai sẽ là điều tra,
nhưng không quá nhiều; báo chí sẽ được dịp công bố, nhưng họ sẽ không
bao giờ chạm tới sự thật.