tham chiến chống Iraq. Không lâu sau chiến tranh, khi đại diện 13 nước
xuất khẩu dầu mỏ chuẩn bị họp mặt tại Geneva, phóng viên kinh tế của tờ
New York Times viết: “Với chiến thắng quân sự của mình, Mỹ có nhiều khả
năng giành được ảnh hưởng lớn nhất đối với Tổ chức Các nước xuất khẩu
dầu lửa (OPEC) hơn bất kỳ một nước công nghiệp nào khác từng có được”.
Nhưng những động cơ này không được công bố cho người dân Mỹ. Người
ta chỉ được biết rằng Mỹ muốn giải phóng Kuwait khỏi ách thống trị của
Iraq. Các phương tiện truyền thông chính nhắc đi nhắc lại rằng đây chính là
nguyên nhân của chiến tranh và không hề đề cập đến trường hợp các nước
bị xâm lược khác không có được sự quan tâm này của Mỹ (Đông Timor bị
Indonesia xâm lược, Iran bị Iraq xâm lược, Lebanon bị Israel xâm lược,
Mozambique bị Nam Phi xâm lược), và cũng không hề nhắc đến các nước
bị Mỹ xâm lược như Grenada hay Panama.
Lời bào chữa cho chiến tranh có vẻ thuyết phục nhất là Iraq đang trong quá
trình xây dựng bom nguyên tử, nhưng tất cả chứng cứ cho điều này đều rất
yếu ớt. Trước cuộc khủng hoảng ở Kuwait, các nhà khoa học phương Tây
đã ước tính Iraq phải mất khoảng 3-10 năm để xây dựng vũ khí nguyên tử.
Ngay cả khi Iraq có thể chế tạo bom nguyên tử trong một hoặc hai năm
(theo những dự đoán bi quan nhất), thì cũng không có được hệ thống phân
phối để đưa vũ khí đi bất cứ đâu. Bên cạnh đó, nếu Israel đã chế tạo thành
công vũ khí nguyên tử thì nước Mỹ cũng đã có khoảng 30 nghìn quả bom.
Chính quyền Bush đang cố gắng hết sức để reo rắc một nhận định hoang
tưởng trong toàn nước Mỹ về quả bom không hề tồn tại của Iraq.
Bush kiên quyết gây chiến. Đã có một vài cơ hội thương lượng để Iraq rút
quân khỏi Kuwait sau cuộc xâm lược, trong đó gồm có lời đề nghị của Iraq
được phóng viên Knut Royce tường thuật trên tờ Newsday số ra ngày 29
tháng 8. Nhưng không hề có câu trả lời từ phía Mỹ. Khi Bộ trưởng Ngoại