Hai năm sau, chiến tranh Vùng Vịnh chống Iraq đã đưa đến một cơ hội cho
Mỹ. Iraq, dưới chế độ độc tài hung bạo của Saddam Hussein, đã xâm chiếm
nước láng giềng Kuwait nhỏ nhưng giàu có về dầu mỏ vào tháng 8 năm
1990.
George Bush cần làm một điều gì đó để tăng cường hình ảnh của mình
trong lòng các cử tri Mỹ. Trên trang nhất tờ Washington Post (số ra ngày 16
tháng 10 năm 1990) có dòng tít: “Tín nhiệm sụt giảm: Số phiếu của Bush
tụt dốc”. Trong số ra ngày 28 tháng 10 viết: “Một số nhà quan sát trong
đảng của Bush lo lắng rằng Tổng thống sẽ phải châm ngòi một cuộc chiến
để ngăn chặn sự suy yếu trong những đóng góp của mình tại quê nhà.”
Ngày 30 tháng 10, một quyết định mật được đưa ra đối với cuộc chiến tại
Iraq. Liên Hiệp Quốc đã đáp trả vụ xâm lược Kuwait bằng việc phê chuẩn
sắc lệnh chống Iraq. Hết nhân chứng nọ đến nhân chứng kia chứng thực
trước Ủy ban Quốc hội rằng sắc lệnh này có hiệu quả và nên được tiếp tục.
Báo cáo của CIA trước Thượng viện cho thấy xuất nhập khẩu của Iraq giảm
đến hơn 90% vì sắc lệnh này.
Nhưng sau cuộc bầu cử vào tháng 11 với nhiều thắng lợi thuộc về Đảng
Dân chủ, Bush tăng cường gấp đôi lực lượng quân sự ở Vùng Vịnh lên 500
nghìn lính, tạo thành một đội quân tấn công hơn là một đội quân bảo vệ.
Theo Elizabeth Drew, phóng viên tờ New Yorker, sỹ quan phụ tá của Bush
là John Sununu cho biết “một cuộc chiến tranh nhanh chóng và thành công
sẽ là ‘cục vàng nguyên chất’ đảm bảo sự tái đắc cử của Tổng thống”.
Nhà sử học John Wiener phân tích tình hình trong nước viết: “Bush bỏ sắc
lệnh và chọn chiến tranh vì thời gian tại vị của ông ta bị giới hạn bởi cuộc
bầu cử tổng thống năm 1992 sắp tới”.
Chính điều này và ước ao có được tiếng nói quyết định đối với nguồn dầu
mỏ của Trung Đông từ lâu đã là những nhân tố cốt yếu trong quyến định