giao James Baker đến Geneva để gặp gỡ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Iraq,
Tariq Aziz, chỉ thị của Bush là “không thương lượng”.
Sau hàng tháng hô hào cổ vũ về sự nguy hiểm của Saddam Hussein, các
khảo sát cho thấy không đến một nửa dân chúng ủng hộ hành động quân sự.
Tháng 1 năm 1991, khi rõ ràng cảm thấy cần sự ủng hộ, Bush đã yêu cầu
Quốc hội cho quyền tiến hành chiến tranh. Đây không phải là một tuyên bố
chiến tranh như được nêu trong Hiến pháp; bởi kể từ chiến tranh Triều Tiên
và Việt Nam, phần đó trong Hiến pháp đã chết, và thậm chí những kẻ “giải
thích hiến pháp nghiêm khắc” trước Tòa án Tối cao – những kẻ tự hào về
việc diễn giải đúng và nghiêm túc những lời lẽ trong hiến pháp, cũng sẽ
không thể can thiệp.
Cuộc tranh luận tại Quốc hội diễn ra gay gắt. (Tại một thời điểm, bài diễn
văn của Thượng viện bị cắt ngang bởi tiếng thét của những người phản đối
từ ban công “Không đổi máu lấy dầu!” Những người phản đối này đã bị bảo
vệ đẩy ra ngoài). Rất có thể Bush đã chắc chắn về số người ủng hộ, nếu
không ông ta đã phát động cuộc xâm lược mà không cần có sự ủng hộ của
Quốc hội. Những tiền lệ theo kiểu này cũng đã xảy ra ở Triều Tiên, Việt
Nam, Grenada và Panama.
Chỉ một số người trong Thượng viện bỏ phiếu ủng hộ hành động chiến
tranh. Hạ viện củng cố nghị quyết với phần đông số phiếu. Tuy vậy, khi
Bush ra lệnh tấn công Iraq thì cả hai viện đều “ủng hộ chiến tranh và quân
đội tham chiến” với rất ít số bất đồng ý kiến.
Giữa tháng 1 năm 1991, sau khi Saddam Hussein đưa ra tối hậu thư yêu cầu
Mỹ rời khỏi Kuwait, Mỹ đã mở một cuộc không chiến tấn công Iraq. Cuộc
không chiến có tên là Cơn bão Sa mạc. Chính phủ và giới truyền thông đã
vẽ nên bức tranh về một quyền lực quân sự dữ dội, nhưng Iraq cách Mỹ quá