Trên thực tế, phong trào đã không dừng lại. Trong một thập kỷ tiếp theo,
một phong trào quốc gia về chống vũ khí hạt nhân đã được phát triển bởi
một nhóm nhỏ gồm cả nam lẫn nữ, sẵn sàng vào tù, miễn sao giới chức
dừng chương trình vũ khí hạt nhân và nghĩ tới hàng triệu người Mỹ đang lo
sợ về thảm họa hạt nhân, đang căm phẫn vì hàng tỷ đô-la dành cho vũ khí,
trong khi dân chúng cần tiền cho các nhu cầu thiết yếu hàng ngày.
Thậm chí, chính các bồi thẩm viên thuộc giới trung lưu ở bang
Pennsylvania, những người đã kết tội nhóm Philip Berrigan, cũng bày tỏ
thông cảm với hành động của nhóm này. Bồi thẩm viên Michael DeRosa
nói với một phóng viên: “Tôi không nghĩ họ thật sự có ý định phạm tội. Họ
chỉ biểu tình.” Một bồi thẩm viên khác, bà Mary Ann Ingram, cho biết bồi
thẩm đoàn đã tranh luận: “Chúng tôi… thật sự không muốn kết tội họ… Họ
không phải là tội phạm. Họ là những người đang cố gắng làm điều gì đó tốt
đẹp cho đất nước. Nhưng thẩm phán lại nói năng lượng hạt nhân không phải
là vấn đề nghiêm trọng.”
Ngân sách quân sự khổng lồ của Reagan là nguyên nhân dẫn tới một phong
trào phản đối vũ khí hạt nhân trên toàn nước Mỹ. Trong cuộc bầu cử năm
1980 đưa Reagan lên chức tổng thống, cuộc trưng cầu dân ý ở ba quận phía
tây Massachusetts cho phép cử tri phát biểu liệu họ có tin vào việc Mỹ và
Xôviết tạm ngưng thử, sản xuất và triển khai các loại vũ khí hạt nhân; đồng
thời muốn Quốc hội chuyển toàn bộ quỹ dành cho quân sự đó cho các mục
tiêu dân sự. Hai nhóm hòa bình đã làm việc với nhau hàng tháng trong
chiến dịch trưng cầu dân ý đó và cả ba quận đó đều ủng hộ nghị quyết (65
nghìn trong tổng số 94 nghìn người tham gia ủng hộ), kể cả những người đã
bỏ phiếu bầu Reagan làm Tổng thống. Cuộc trưng cầu dân ý tương tự ở San
Francisco, Berkeley, Oakland, Madison và Detroit từ năm 1978 đến 1981
cũng nhận được đa số phiếu ủng hộ.