Làm thế nào có thể xoa dịu Yahweh một cách hiệu quả đây? Các tư tế của
Đền Jerusalem cho rằng có thể làm việc này bằng cách tiêu diệt, một lần và
mãi mãi, các tập tục thờ cúng đáng ngờ của những địa điểm lâu đời và
những ngôi đền ở tỉnh, rồi chỉ tập trung thờ cúng ở Jerusalem, nơi chính
giáo có thể được duy trì với mọi sự thanh khiết của nó. Quá trình này được
tăng tốc năm 622 TCN, giữa lúc đang sửa sang Ngôi đền, Hilkiah tư tế cả
tìm thấy một cuốn sách cổ, có lẽ là bản gốc của Ngũ Thư, có lẽ là Sách Đệ
nhị luật, ghi lại giao ước giữa Chúa và Israel và kết thúc bằng những lời
nguyền đáng sợ của Chương 28. Phát hiện này gây ra hoảng loạn, vì có vẻ
như nó xác nhận những lời cảnh báo tiên tri của Hosea và gợi ý rằng số
phận như của miền bắc sắp được giáng xuống miền nam. Nhà vua, Josiah,
“xé toạc áo mình ra” và ra lệnh cải cách triệt để tín ngưỡng này. Mọi hình
tượng đều bị phá hủy, những nơi thờ bị đóng cửa, các tư tế ngoại đạo, phi
chính thống và dị giáo bị giết hại, và cuộc cải cách chính thống kết thúc
bằng một lễ kỷ niệm quốc gia trang trọng là lễ Vượt qua, theo một kiểu
chưa từng thấy ở Jerusalem.
Do đó, một nghịch lý kỳ lạ, đối tượng hưởng
lợi chính của cuộc trở lại cội nguồn quá khứ tôn giáo dân tộc là Đền
Jerusalem, được đưa ra như một cải tiến gần như là ngoại đạo của
Solomon. Sức mạnh của các tư tế tăng lên nhanh chóng, và ngôi đền trở
thành nơi phán xét - ở tầm quốc gia hay chí ít là thuộc chính quyền - của
mọi chân lý tôn giáo.
Nhưng trong giai đoạn thảm khốc này, một cách nghĩ thứ hai và không
chính thức bắt đầu lộ diện. Nó nói tới sự cứu rỗi theo một hướng rất khác,
cuối cùng được chứng minh là hướng đúng. Hosea đã viết về sức mạnh của
tình yêu và kêu gọi thay đổi từ trong tâm can mọi người. Một người miền
nam cùng thời trẻ hơn ông đã phát triển những ý tưởng này. Isaiah sống vào
lúc vương quốc miền bắc đang bị kết án tử. Không như hầu hết các nhân
vật anh hùng của Kinh Thánh, ông không sinh ra trong nghèo khó: theo
truyền thuyết của Talmud Babylon, ông là cháu của Vua Amaziah xứ
Judah.
Nhưng những ý tưởng của ông mang tính dân túy hoặc dân chủ.
Ông không tin vào quân đội và tường thành, vua chúa và đền đài tráng lệ.