thống giáo, vì việc sử dụng nó khuyến khích sự lạc hậu, mê tín và phi lý.
Trong cộng đồng Do Thái lớn ở Hungary chẳng hạn, ngôn ngữ địa phương
được sử dụng cho cuộc sống hằng ngày, và tiếng Yiddish là ngôn ngữ của
việc học tôn giáo; các cậu bé Do Thái phải dịch văn bản tiếng Hebrew và
tiếng Aram sang tiếng Yiddish - nên nó bị gắn với Chính thống giáo chưa
bị biến dạng. Tuy nhiên, ở biệt khu Do Thái tại Nga và ở xứ Galicia thuộc
Áo, nó thường là ngôn ngữ của thế tục hóa. Vào nửa sau thế kỷ 19, gần như
mọi cộng đồng Do Thái tương đối lớn ở Đông Âu đều có giới vô thần và
cấp tiến mà ngôn ngữ thể hiện sự bất đồng quan điểm của họ là tiếng
Yiddish, họ đọc sách và tạp chí tiếng Yiddish phục vụ cho quan điểm ấy.
Tuy nhiên, kể cả ở phương Đông, nơi tiếng Yiddish là ngôn ngữ Do Thái đa
số, nó vẫn không nắm được độc quyền chốn thế tục. Vì những người cấp
tiến chính trị ngày càng quay sang sử dụng tiếng Đức, rồi tiếng Nga. Theo
kiểu maskil đích thực, những người thế tục hóa phi chính trị thường trao
một vị thế siêu việt cho tiếng Hebrew. Quan điểm được Nahum Slouschz
đưa ra, là người dịch Zola, Flaubert và de Maupassant sang tiếng Hebrew:
Trong khi người Do Thái được giải phóng của phương Tây thay thế tiếng Hebrew bằng thứ
tiếng phổ thông của đất nước mình sinh sống; trong khi các giáo sĩ không tin bất cứ thứ gì
không phải là tôn giáo; và các nhà bảo trợ giàu có từ chối bảo trợ một nền văn học không
được quyền gia nhập giới thượng lưu - trong khi họ thờ ơ, thì người maskil, người “trí thức”
của thị trấn nhỏ, người mehabber [nhà văn] Ba Lan, bị khinh rẻ và vô danh, thường là một
người tử vì đạo, là người dâng cả trái tim, linh hồn và sức mạnh của mình để nâng niu duy trì
truyền thống văn học tiếng Hebrew - chỉ mỗi họ vẫn trung thành với cái đã là sứ mệnh đích
thực của ngôn ngữ Kinh Thánh từ những ngày đầu của nó.
Điều đó hiển nhiên là đúng. Nhưng có nhiều nhà văn tiếng Yiddish cũng có
thể đưa ra lập luận bi-hùng tương tự cho mình, ít nhất với một tuyên bố
mạnh mẽ là đang tôn vinh tinh thần Do Thái.
Tóm lại, trong những thập niên đầu thế kỷ 19, viễn cảnh và tương lai ngôn
ngữ Do Thái thật rối rắm, vì những lý do có căn nguyên sâu xa trong lịch