huy tiểu đoàn D, có ba bằng đại học và một bằng tiến sĩ luật. Ernst
Biberstein, một trong những chỉ huy của tiểu đoàn C, là mục sư Tin Lành,
nhà thần học và quan chức giáo hội.
Trong số những người Do Thái trên lãnh thổ Xô Viết, bốn triệu người sống
ở các khu vực bị quân Đức chiếm đóng giai đoạn 1941-1942. Trong số này,
2,5 triệu người bỏ chạy trước khi quân Đức tới. Phần còn lại tập trung đến
90% ở thành phố, nên Einsatzgruppen giết họ dễ dàng hơn. Các tiểu đoàn
giết người đi ngay sau các đơn vị quân đội, bắt giữ người Do Thái trước khi
cư dân thành phố biết chuyện gì sắp diễn ra. Trong đợt giết người đầu tiên,
bốn tiểu đoàn báo cáo vào những ngày khác nhau từ giữa tháng 10 đến đầu
tháng 12 năm 1941 rằng họ đã giết lần lượt 125.000, 45.000, 75.000 và
55.000 người. Nhưng do nhiều người Do Thái còn sót lại ở hậu phương,
nên các đội quân giết người được phái đi để bắt và giết họ. Quân đội hợp
tác trong việc bàn giao họ, xoa dịu lương tâm bằng cách gọi người Do Thái
là “dân quân” hay “bọn ăn uống tham lam.” Đôi khi, quân đội tự tay giết
hại người Do Thái. Cả quân đội lẫn SS đều kích động việc tàn sát để giúp
giảm bớt rắc rối cho mình. Có rất ít kháng cự từ phía người Do Thái.
Thường dân Nga hợp tác, mặc dù có một hành động được ghi lại về việc
một thị trưởng địa phương bị bắn vì tìm cách “giúp đỡ người Do Thái.”
Các nhóm giết người khá nhỏ nhưng lại giết rất nhiều người. Ở Riga, một sĩ
quan và 21 lính giết 10.600 người Do Thái. Ở Kiev, hai chi đội nhỏ của tiểu
đoàn C giết trên 30.000 người Do Thái. Đợt giết chóc thứ hai bắt đầu từ
cuối năm 1941 và kéo dài đến hết năm 1942. Con số người Do Thái bị giết
trong đợt này là trên 900.000. Hầu hết người Do Thái bị giết bằng súng bên
ngoài thành phố, tại các đường hào đã biến thành những nấm mộ. Trong
đợt thứ hai này, các mộ chôn tập thể được đào trước tiên. Những kẻ sát
nhân bắn vào gáy người Do Thái, phương pháp từng được cảnh sát mật Xô
Viết sử dụng, hoặc bằng “phương pháp xếp lớp cá mòi.” Với phương pháp
sau, lớp đầu tiên nằm dưới đáy mồ và bị bắn từ bên trên. Lớp thứ hai nằm
trên các thi thể lớp thứ nhất, xoay đầu đuôi. Có năm hoặc sáu lớp như vậy,
rồi mộ được lấp đất.