bớt.
Cánh đồng Phụng Hiệp lần hồi có nhiều kinh quy tụ về một trung tâm, gọi
là Ngã Bảy.
Voi rừng bị bắn chết, một mớ thì bị mấy thày ngải từ Nam Vang tới bắt; nhà
nước đã xuất ra 241 đồng để thưởng mấy thày ngải này.
Có thể nói khoảng 1908—1909 là những năm lạc quan nhứt về mặt phát
triển, xây dựng cơ cấu kinh tế : cất xong nhà chợ (chợ cá) tại chợ Cần Thơ,
ráp nhà lồng chợ mới ở Cái Răng, nhà lồng chợ Cái Răng thì bán cho chợ
Ô Môn, nhà lồng chợ Ô Môn thì bán cho chợ nhỏ hơn là chợ Rạch Gòi.
Cuối năm 1910, nhà thầu đã cẩn xong bờ sông Cần Thơ (chỗ vàm rạch Cái
Khế) : cẩn bằng cừ cây, lót vỉ sắt, tráng xi—măng bên ngoài cho nước
không làm lở và đồng thời cẩn đá luôn bờ sông tại chợ.
Năm 1911, chỉnh đốn lại mấy “mũi tàu” rạch Cái Vồn Lớn, Cái Vồn Bé và
bờ rạch Trà Ôn. Mấy nẻo yết hầu này là đường chở lúa gạo từ Hậu giang
qua Tiền giang; dùng kỹ thuật đặc biệt, cẩn từng cục xi—măng cứng (gọi
là cuirasse Decauville) để khỏi bị nước xoáy làm lở bờ. Năm 1908, chủ
tỉnh Outrey đưa ra kế hoạch biến Phụng Hiệp trở thành một thương cảng.
Xáng đào thêm con kinh nối Phụng Hiệp với Sóc Trăng, năm 1901.
Bấy lâu, lúa từ Cà Mau chở lên Mỹ Tho rồi lên Sài Gòn theo con đường
quanh co, không thuận lợi : từ Cà Mau theo kinh lên Bạc Liêu, qua Cổ Cò,
Sóc Trăng, ra Đại Ngãi, vượt Hậu giang rồi theo con rạch Tiểu Cần đến
Láng Thé, rồi qua Tiền giang đến Mỏ Cày, qua Bến Tre rồi Mỹ Tho. Năm
1914, kế hoạch đào kinh Quan Lộ được nghiên cứu và thi hành gấp, nối
liền Cà Mau thẳng lên Phụng Hiệp để từ đó qua Cái Côn rồi qua Trà Ôn,
con đường rút ngắn hơn nhiều. Ngoài ra, hai bờ kinh Quan Lộ sẽ quy tụ dân
đến khẩn đất, nhà nước thêm lợi.
Năm 1915, quận lỵ Rạch Gòi dời đến Ngã Bảy, Phụng Hiệp, gọi là quận
Phụng Hiệp. Đây là quận thành hình giữa vùng lau sậy hoang vu, sau 10
năm đào kinh xáng, nằm trên đường thủy từ Cà Mau ra Hậu giang, đem lúa
và sản phẩm lên Sài Gòn.
Trên những nét chánh, việc khẩn hoang được hoàn tất, khi đường thủy nắm
ưu thế. Qua trận thế chiến thứ nhứt, đường bộ bắt đầu phát triển. Cần Thơ