mặt nam mà thôi. Bởi sao mà như thế ? Bởi vì địa thế của ta nó khiến như
thế. Nước ta ngày xưa phía bắc giáp nước Tàu, phía nam giáp Chiêm, Lạp,
phía đông giáp bể lớn, phía tây giáp Ai-lao. Ở giữa cái khoảng núi Tản sông
Hồng kia nếu muốn khuếch trương bờ cõi cho rộng lớn thêm có đủ thế lực
mà lập nên một nước đứng đắn ở Á-đông, trừ tiến về mặt nam không còn
mặt nào hơn nữa. Bởi vì mặt bắc giáp nước Tàu là một nước rất lớn, lo
chống chọi với họ để họ khỏi nuốt sống mình còn lo chưa nổi, mong gì khai
thác về mặt ấy được ; mặt đông thì đã giáp bể ; mặt tây giáp với Ai-lao tuy
là một nước nhỏ yếu,nhưng vì có nhiều núi cao rừng rậm ngăn cách, thành
ra dẫu muốn mở mang về mặt ấy cũng chưa thể được ; trừ ra chỉ còn mặt
nam giáp với nước Chiêm-thành, nước Chiêm-thành lại giáp với nước Chân-
lạp, vì cớ đường thuỷ, đường lục được tiện, vả hai dân ấy đều là dân nhỏ yếu
có thể lấn át họ được, vì vậy mà sức bành trướng của dân tộc ta trước sau
đều chỉ tràn về mặt nam. Tuy thế mặc lòng, sự khai thác bờ cõi, há có phải là
một việc dễ đâu ; huống chi dân Chiêm Lạp cũng không phải hoàn toàn là
giống hư hèn, cũng là những cái dân đã từng có một nền văn-minh rất sớm,
thế mà lấy như một dân tộc nhỏ ở trong mảnh đất Giao-chỉ nọ, ngày lần
tháng nữa, đã nghiễm nhiên phá diệt được cả Chiêm-thành lẫn Chân-lạp mà
dựng nên một nước lớn Việt-Nam, đủ biết cái công phu huyết hãn của các
đứng tiên dân ta xưa, thực đã lớn lao vô cùng vậy.
Cứ như các nhà nhân-chủng-học thì bảo dân tộc ta thuộc giống Mông-
cổ, song cỗi gốc từ đâu mà đến thì mỗi sách nói một khác không sao đủ
bằng cứ được. Sách thì bảo dân ta là ròng rõi Tây-tạng, sách thì bảo là ròng
rõi Giao-chỉ, sách thì bảo là ròng rõi Việt thường, sách thì bảo là ròng rõi
nước Việt bên Tàu, tổng chi đều là những nhời ức đoán cả, chứ không lấy gì
làm đích xác. Vậy chúng ta chỉ nên biết rằng chúng ta là riêng một dân tộc ở
trong thế giới, tức ngày nay gọi là dân tộc Việt-nam.
Xét về cương vực nước ta đời Hùng dựng nước, đồ bản lúc ấy khác hẳn
bây giờ ; cứ như sử cũ thì nói bấy giờ phía đông giáp bể Nam, phía tây giáp
Ba-thục (tỉnh Tứ-xuyên nước Tầu bây giờ) phía bắc hồ Đỗng đình (thuộc
tỉnh Hồ-nam) phía nam đến nước Hồ-tôn (sau là Chiêm-thành), quốc hiệu là