Tổ chức và hoạt dộng của tù chính trị Banh II
Banh II được cấu trúc một kiểu như Banh I nhưng được dành riêng để
đày ải tù chính trị với chế độ khác biệt hẳn. Tù nhân Banh II bị cấm cố
trong khám, mỗi ngày chỉ được ra ngoài hai lần, mỗi lần chưa đến mười
phút để nuốt vội miếng cơm hẩm đầy sạn và thóc. Vào cấm cố vài tháng là
ghẻ lở đầy người, mòn mỏi đi vì thiếu ánh sáng, khí trời và dinh dưỡng.
Thêm vào đó là chế độ ăn uống tồi tệ, nhiều người bị kiết lỵ nặng rồi chết.
Năm 1931, Banh II có hơn 300 tù chính trị thì có 30 người chết vì bệnh tật.
Tháng 3 năm 1932, Thanh tra thuộc địa ra Côn Đảo đã nhận xét: “Chế độ
phát lưu (déportation) hiểu và thực hiện như thế này thì nặng hơn chế độ
khổ sai”.
Đáng lẽ người bị án phát lưu được sinh sống tự do như dân thường trên
đảo, được giúp đỡ làm nhà riêng, được đưa vợ con ra nếu muốn, được tự do
mua sách báo, học tập và nghiên cứu, biên soạn chỉ trừ việc xuất bản phổ
biến và đi ra khỏi đảo1. Thế nhưng bất chấp cả luật pháp, bọn thực dân đã
thi hành một chính sách đày đọa độc tài và phát xít. Mỗi lần tù nhân đấu
tranh đòi quyền lợi của tù chính trị thì bọn chúng đều trả lời thẳng thừng:
Không xử tử được tụi bay thì chúng tao phải làm cho tụi bay mục xương
trong tù. Nếu như bọn chúa ngục giết tù nhân Banh I bằng khổ sai thì chúng
giết tù Banh II bằng cấm cố.
Banh II từ đầu năm 1930 là nơi tập trung nhiều tù chính trị thuộc các tổ
chức cách mạng như Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, Tân
Việt cách mạng đảng, Việt Nam Quốc dân đảng, Đảng cộng sản và các tổ
chức quần chúng nói trên; có cả một số người yêu nước dưới ảnh hưởng
của Nguyễn An Ninh. Nếu như yêu cầu cấp bách đối với Banh I là phải đấu
tranh chống chế độ khổ sai giết tù thì yêu cầu khách quan đặt ra cho những
người cộng sản ở Banh II là đoàn kết các xu hướng chính trị, đấu tranh đòi