của Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo, những người bị giặc bắt trong ba cuộc khởi
nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Nam Kỳ (23-n-1940) và Đô Lương (31-1
1941) đã sát cánh bên nhau chống chế độ khủng bố dã man của thực dân
Pháp.
Banh III lúc ấy còn có một số tù người Khơme tham gia các phong trào
chống Pháp của sư sãi Phnôm Pênh (Campuchia). Chi bộ khu cấm cố giáo
dục cho cán bộ đảng viên tinh thần đoàn kết các dân tộc Đông Dương
chống Pháp. Nhiều đồng chí được phân công gần gũi giúp đỡ anh em tù
Khơme. Các đồng chí đã nhờ anh em dạy tiếng Khơme và dạy cho anh em
tiếng Việt. Nhiều cuộc nói chuyện về đất nước, con người và phong trào
cách mạng của hai dân tộc Việt Nam - Khơme đã tăng cường tình đoàn kết
giữa những người tù trong khu cấm cố. Chi bộ giới thiệu về cương lĩnh Mặt
trận Việt Minh và đường lối đoàn kết các dân tộc Đông Dương trong một
Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc của Đảng cộng sản Đông
Dương cho anh em.
Mặc dù phong tục tập quán và trình độ giác ngộ có khác nhau, những
người tù Khơme trong khu cấm cố đều có thiện cảm với những người cộng
sản Việt Nam. Sau khi Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, những
người tù Khơme đều được đưa về đất liền và được tạo điều kiện trở về quê
quán. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Pátsuôn (Patchhoeun) đã được
cử làm Chủ tịch ủy ban dân tộc giải phóng người Khơme ở Châu Đốc. Sau
này làm việc cho Xihanúc, ông vẫn giữ mối thiện cảm với cách mạng Việt
Nam.
Ở Banh III lúc này còn có một số tù thuộc các đảng phái thân Nhật Bọn
này ra sức ca tụng chủ nghĩa phát xít chống Liên Xô và tuyên truyền cho
chính sách Đại Đông Á của Nhật. Chúng đe dọa bọn gác dang Pháp và đả
kích những người cộng sản. Anh em cộng sản rất bất bình nhưng vẫn giữ
thái độ ôn hòa với chúng. Một số tên quá khích như tên Bể, tên Thu chửi
cộng sản suốt ngày. Một lần tên Thu xuyên tạc lá cờ đỏ sao vàng của Việt
Minh một cách rất bỉ ổi, anh em kíp xe chỉ phẫn nộ đã đánh y một trận để
cảnh cáo.