hay “chín phần chết - một phần sống” mà có thể nói là đi vào chỗ chết để
tìm sự sống.
Nhưng khác hẳn với những cuộc vượt ngục trước đó, tổ chức tù nhân
kháng chiến đã xác định rõ mục đích cho mỗi cuộc vượt ngục là giải phóng
một lực lượng cách mạng chứ không mang ý nghĩa giải thoát sinh mạng
cho cá nhân. Các cuộc vượt ngục lẻ thì tùy theo điều kiện của từng nhóm,
nhưng kế hoạch giải thoát từng bộ phận hay toàn thể tù chính trị thì cá nhân
phải phục tùng tập thể. Toàn bộ kế hoạch giải thoát (dù là một bộ phận nhỏ)
đều do thường vụ Đảo ủy trực tiếp chỉ đạo, sau khi đã tính toán thật kỷ
những khả năng thành công hay thất bại, dù vẫn biết rằng: “Mưu sự tại
nhân - thành sự tại thiên”. “Thiên” ở đây có thể hiểu là hàng loạt các yếu tố
rủi ro mà trong hoàn cảnh của người tù Côn Đảo không thể kiểm soát được.
Cuộc võ trang giải thoát lớn nhất trong lịch sử nhà tù này của 200 tù binh
tại Bến Đầm (12-12-1952) không thành, nhưng nó đã để lại nhiều bài học
quý về kinh nghiệm võ trang tự giải phóng của tù chính trị Côn Đảo. Mười
ba năm sau, cuộc chiếm tàu địch, vượt Côn Đảo của 57 tù chính trị Côn
Đảo thời chống Mỹ (27-2-1965) thắng lợi trọn vẹn trong điều kiện địch
kiểm soát vô cùng nghiêm ngặt đã minh chứng cho tư tương võ trang tự
giải phóng của thế hệ tù chính trị kháng chiến là hoàn toàn có cơ sở, không
chỉ về lý luận mà trên thực tiễn của Mặt trận Nhà tù.
Tư tưởng võ trang giải thoát được tiếp tục hoàn thiện và phát triển đến
đỉnh cao là cuộc nối dậy giải phóng Côn Đảo toàn thắng đêm 30 rạng ngày
1-5-1975.
Lịch sử đấu tranh chính trị giai đoạn 1955-1975 ở nhà tù Côn Đảo mang
những nét đặc thù của thế hệ tù chính trị trong nhà tù Mỹ - ngụy. Nội dung
cơ bản của cuộc đấu tranh trong giai đoạn này là đấu tranh chính trị, bảo vệ
khí tiết của người cách mạng, bảo vệ lí tưởng cộng sản, bảo vệ lí tưởng độc
lập tự do và chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sáng cho
dân tộc.
Không chỉ là nơi cách ly, giam giữ, khủng bố, đày ải, giết hại như thời
Pháp thuộc, Mỹ- ngụy đã biến Nhà tù Côn Đảo thành nơi tiến hành các thủ