Tù Côn Đảo tổ chức nhiều cuộc nổi dậy
Ngày 28-8-1894, 65 người tù khổ sai bị đưa ra lấy san hô, 8 giờ tối, 15 tù
nhân, do ông Đạt (số tù 3084) chỉ huy, đã giết hai gác ngục bằng lưỡi hái.
Họ dự định cướp thuyền vượt ngục, nhưng việc không thành. ông Đạt nhảy
xuống biển bơi trốn sau đó bị sóng đánh dạt vào bờ. Ông bị giặc bắt và bị
tử hình.
Ngày 25-7-1904, 65 tù khổ sai người Bắc Kỳ bị đưa sang Hòn Cau lấy
dừa về đảo. Viên trưởng tàu sà lúp Lơ Carê (Le Carer) chỉ huy chung, dưới
quyền có 3 giám thị người Pháp, một người lính Tagan, 2 ma tà người Việt.
Những người tù khổ sai đã hiệp lực diệt hầu hết bọn nhân viên coi tù này,
chỉ trừ hai tên giám thị Pháp nhảy xuống biển nên thoát chết. Chiếc tàu chở
tù chạy thẳng ra khơi. Bọn Pháp đã huy động chiếc tàu chiến Atxơpic
(Aspic) truy lùng họ, nhưng vô hiệu.
Sau cuộc chống thuế ở Trung Kỳ, một lớp tù nhân mới, những vị văn
thân, những nhà nho yêu nước hoạt động trong các phong trào Đông Du
(1905-1908), Đông kinh nghĩa thục (1907), phong trào Duy Tân và phong
trào chống đi phu, đòi giảm thuế ở Trung Kỳ (1907-1908) đã bị Pháp đày ra
Côn Đảo. Phần lớn các vị đều là những người cầm đầu, khởi xướng của các
tổ chức cách mạng theo chiều hướng dân chủ tư sản.
Khuynh hướng tư tưởng của các cụ đã có ảnh hưởng rõ nét đến sắc thái
hoạt động và tranh đấu cua tù chính trị Côn Đảo. Các vị không chủ trương
bạo động mà chuyển sang hình thức đấu tranh trên các mặt chính trị, văn
hóa và đòi cải thiện đời sống theo khuynh hướng cải lương. Những hoạt
động phản kháng chế độ lao tù rất yếu ớt, tuy ý chí đấu tranh cứu nước
không hề giảm sút, biểu hiện chủ yếu trong một nền thi ca mới: thi ca trong
tù, khởi đầu là thi ca trong ngục tù Côn Lôn.
Từ kinh đô Huế, Phan Chu Trinh trên đường đi đày ra Côn Đảo đã ứng
khẩu bài tứ tuyệt nổi tiếng “Ra cửa đô môn” (Xuất đô môn tác):