LỊCH SỬ NHÀ TÙ CÔN ĐẢO (1862 - 1975) - Trang 67

Luy luy già tòa xuất Đô môn,
Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn,

Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy,

Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn!

1

Huỳnh Thúc Kháng, bạn chiến đấu của Phan Chu Trinh đã dịch :

Xiểng gông cà kệ biệt đô môn,
Khảng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn,
Đất nước đắm chìm nòi giống mỏn,

Thân trai nào sợ cái Côn Lôn!
Sau Phan Chu Trinh là các cụ Huỳnh Thức Kháng, Đặng Nguyên Cẩn

(số tù 7448), Ngô Đức Kế cùng hàng chục thân sĩ Bắc, Trung, Nam bị kết
án chính trị đày ra Côn Đảo. Khi đó cụ Phan đang ở Sở rẫy An Hải, cụ đã
tìm cách gửi thư động viên các bạn chiến đấu, ngay buổi chiều hôm họ tới
Côn Đảo: “Thoạt nghe anh em ra đây, dậm chân kêu trời một tiếng, đoạn tự
nghĩ: anh em vì quốc dân mà hy sinh đến phải ra đây, chắc có trăm điều vui
mà không chút gì buồn. Đây là trường học thiên nhiênmùi cay đắng trong
ấy là trai giữa thế kỷ này không thể không nếm cho biết...”

2

.

Ở đảo hồi đó chưa có sự phân biệt tù chính trị với tù thường, họ ở chung

trong Banh I. Các vị thân sĩ vẫn phải làm khổ sai như tù thường. Những
người án nhẹ thì đi làm rẫy, đốn củi, dọn tàu... án nặng thì đập đá trong
banh, không được ra ngoài.

So với công việc khác thì đập đá trong banh là việc tương đối nhẹ, nhưng

đối với các nhà nho, các vị khoa bảng thì quả là khó. Do không làm được
các công việc khổ sai nặng nhọc, bọn gác ngục ác ôn vô học thường đánh
đập, cúp phạt và gọi các cụ một cách xách mé là “tụi quan to hèn”.

Khổ nhục không làm nhụt ý chí đấu tranh của các cụ Sau mỗi ngày lao

động khổ sai, buổi tối trong các khám giam, các cụ vẫn họp lại với nhau,
đàm luận về chính trị, văn chương, xem xét lại hoạt động đấu tranh của
mình.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.