những người sống lưu vong ở Nhật, ở Tàu cũng lần lượt bị trục xuất hoặc
bị bắt bớ, làm khó dễ.
Từ khi bị bắt (1908) đến khi được thả (1921), các cụ đã có dịp suy nghĩ,
cân nhắc để nhận chân sự bất lực của mình, của đường lối mình theo, của
phương pháp mình hành động, mặc dầu tinh thần yêu nước thương nòi, xả
thân vì nghĩa cả không hề đổi khác. Các lãnh tụ phong trào Văn thân đã
nhận thấy con đường họ chọn lựa chỉ đưa đến “một trăm thất bại không một
sự thành công” (Phan Bội Châu).
Nhưng do những hạn chế về giai cấp, về ý thức hệ, các cụ đã không thể
tìm ra một đường lối đúng đắn, tập hợp được đông đảo nhân dân chống
giặc, phù hợp với xu thế của thời đại. Trong những năm tháng ở Côn Đảo,
các nhà Văn thân tỏ ra bất lực, chỉ biểu lộ cảm tình mà không tham gia
những cuộc đấu tranh do các tù nhân khác tiến hành.
Các cuộc bạo động của tù nhân vẫn tiếp tục diễn ra. Ngày 22-5-1910,
một nhóm tù đang xây bể giặt quần áo ở Banh I, đã dùng dao nhọn làm
bằng đai thùng khuy, đâm chết ngay tên Xếp chánh min gia (Emile Aujard).
Tên giám thị này là một lính cảnh sát cũ ác có tiếng, tù nhân đều ghét. Một
tên gác dang khác rút súng bắn chết một tù nhân để cứu gia, tên này cũng
đền tội tại chỗ.
Ngày 12-1-1911, bọn Pháp đem 3 tù nhân liên quan đến vụ giết gia ra
chém đầu, sau khi họ đã không thèm ký vào đơn xin ân giảm. Để giấu giếm
vụ bạo động này, nhà cầm quyền ở Côn Đảo, trong một thời gian dài, canh
gác chặt chẽ không để cho khách vãng lai từ Xanhgapo lên đảo, sợ họ chụp
ảnh nơi đã xảy ra sự việc.
Mùa xuân năm 1918, ở Côn Đảo đã nổ ra cuộc nổi dậy của khám tù
chung thân Banh I, có sự tham gia của Nguyễn Trọng Thạc, một tướng chỉ
huy của phong trào Bãi Sậy, con trai Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện
Thuật.
Ngày mùng 4 Tết Mậu Ngọ (14-2-1918) tù nhân vẫn đi làm ở các sở
ngoài như thường lệ. Tù chung thân ở Banh I cũng ra đập đá dăm trên