nền kinh tế lên một mức cao. Ở những nước khác, tuy chưa tiến hành cách
mạng tư sản, kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng đã bước đầu giành được những
thành tựu đáng kể. Tình hình đó đã tạo nên một nguồn của cải vật chất
phong phú và mở ra khả năng sản xuất to lớn. Đồng thời nó cũng ảnh
hưởng đến sự phát triển của mâu thuẫn xã hội. Bên cạnh mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa tư bản với chế độ phong kiến, đã xuất hiện mâu thuẫn giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản. Điều đó tác động quan trọng đến sự diễn biến
của phong trào cách mạng trong phững năm giữa thế kỷ XIX.
3. Những học thuyết chính trị kinh tế và triết học cổ điển
Nước Anh là nơi khai sinh của cuộc cách mạng công nghiệp và có nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển. Đó cũng là nơi ra đời của nhiều học
thuyết kinh tế tư sản. Trong thế kỷ
XVIII, Adam Xmit (1723-1790) đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành học thuyết, chính trị kinh tế cổ điển của chủ nghĩa tư bản. Ông
là người đầu tiên tuyên bố rằng lao động là nguồn gốc của giá trị, giá trị
hàng hóa là do số lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết
định, tiền lương của công nhân là một phần trong sản phẩm của họ và phần
ấy đo giá trị của tư liệu sinh hoạt quyết định; lợi nhuận và địa tô là sự khấu
vào sản phẩm do lao động công nhân sáng tạo ra. Nhưng ông lại cho rằng
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển thì giá trị hàng hóa là do tiền
lương, lợi nhuận và địa tô hợp thành. Như vậy là ông không kể tới giá trị
của tư bản bất biến hao phí trong khi sản xuất ra hàng hóa và do đó không
thể hiểu được quá trình tái sản xuất. Ông cũng là người đầu tiên nêu lên kết
cấu của xã hội tư sản gồm ba giai cấp: công nhân, tư bản và chủ đất mà
không thấy được quá trình đấu tranh giai cấp trong xã hội đó.
Đavit Ricacdô (1772-1823) là người tiếp tục phát triển học thuyết
chính trị kinh tế học cổ điển hồi đầu thế kỷ XIX. Xuất phát từ quan điểm
lao động là nguồn gốc của giá trị, ông vạch ra sự đối lập giữa lợi ích của
các giai cấp trong xã hội tư sản nhưng lại coi sự đối lập đó là quy luật tự