triệu phrăng, năm 1869 đã lên tới 8003 triệu, gấp hơn 3 lần. Bằng những
hiệp ước ký kết với các nước, Pháp tăng cường buôn bán với Anh, Bỉ, Đức,
Ý, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Hà Lan, Áo, Bồ Đào Nha…, trong
đó nước Anh chiếm tỉ lệ hàng hóa cao nhất.
Sự phát triển của tư bản ngân hàng diễn ra nhanh hơn sự phát triển của
tư bản công nghiệp. Những hoạt động của ngân hàng Pháp tăng lên gấp 5
lần (năm 1851: 1592 triệu phrăng, 1869: 8325 triệu phrăng). Các cơ sở giao
dịch hoạt động rất mạnh mẽ. Sở Giao dịch Pari trở thành một thị trường
buôn bạc ở châu Âu, cạnh tranh với Sở Giao dịch Luân Đôn. Số tư bản to
lớn đó của nước Pháp không được sử dụng vào việc phát triển công nghiệp
hay nông nghiệp. Phần lớn được xuất khẩu ra các nước chậm phát triển ở
châu Âu và các thuộc địa dưới hình thức ngân hàng cho vay lãi hay đầu tư
khai thác những nước đó. Năm 1868, 14 chính phủ các nước phải vay nợ
của ngân hàng Pháp 33 tỉ phrăng. Nước Pháp dần dần đóng vai trò của kẻ
cho vay trên thị trường thế giới.
Do ảnh hưởng của sự phát triển công nghiệp, bộ mặt Pari và các thành
phố thay đổi rõ rệt. Một hệ thống đại lộ, nhà ga, cửa hàng, công viên được
dựng lên thay thế các phố cũ chật hẹp.
Năm 1857, cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra trong các ngành công
nghiệp quan trọng. Đến 1866-1867, những cuộc khủng hoảng xảy ra trong
ngành tín dụng nhiều hơn là trong công nghiệp.
Nhìn chung, đến những năm 50-60 thế kỷ XIX, nước Pháp đã hoàn
thành cuộc cách mạng công nghiệp sau hơn một thế kỷ tiến hành. Đặc điểm
của nó là ngay trong cao trào sản xuất công nghiệp, nền sản xuất quy mô
vừa và nhỏ vẫn chiếm ưu thế. Phần lớn số vốn không đầu tư vào các ngành
công nghiệp mà dùng để cho vay. Cũng như bất cứ một nước tư bản chủ
nghĩa nào khác, cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp được tiến hành một
cách tự phát theo quy luật thặng dư giá trị, quy luật lợi nhuận. Nó thường
bắt đầu phát triển từ các ngành công nghiệp nhẹ. Nguồn tích lũy tư bản của