đảm thị trường quan thuế nội địa để bảo vệ và khuyến khích nền công
nghiệp trong nước. Chính lúc đó, chủ nô đóng chặt cửa thị trường miền
Nam không cho hàng hóa miền Bắc vào, nhưng lại mở cửa nhập hàng hóa
của Anh.
Ở miền Nam, các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên miên.
Ở Ludiana nổ ra cuộc khởi nghĩa của nô lệ năm 1741-1792, ở
Viếcginia năm 1792. Mùa xuân năm 1800 gần 1000 nô lệ tập trung ở
Risơmen thuộc bang Viếcginia tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang giải
phóng dưới sự lãnh đạo của Gơrâybien. Năm 1822 có cuộc khởi nghĩa của
nô lệ ở Nam Carôlinna. Năm 1831 cuộc nổi dậy do Toocne lãnh đạo. Năm
1857 một trại chủ người da trắng Giôn Brao đã lãnh đạo nô lệ đánh chiếm
kho vũ khí ở Viếcginia, nhưng cuối cùng cũng bị trấn áp.
Như vậy mâu thuẫn giữa tư bản công thương nghiệp với chủ nô miền
Nam ngày càng gay gắt. Những nhà tư bản miền Bắc muốn tập trung quyền
lực ở trung ương để thống nhất điều khiển sự phát triển kinh tế, đòi phải
đánh thuế cao các hàng công nghiệp nhập có hại cho nền sản xuất của địa
phương. Trái lại những chủ đồn điền, đặc biệt những chủ kinh doanh bông
muốn hạ thấp quan thuế xuất khẩu. Sự thỏa hiệp trong thời gian đầu sau
cách mạng giữa tư bản công thương nghiệp và chủ nô là cần thiết, dựa trên
điều kiện phát triển của kinh tế Mỹ lúc bấy giờ. Nhưng đến những năm 50-
60 của thế kỷ XIX, vấn đề khai thác miền Tây và khuynh hướng phát triển
kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội không cho phép chế độ nô lệ tồn tại nữa
thì cuộc đấu tranh giữa hai bên trở nên gay gắt.
Cuộc di thực về phía tây vào thế kỷ XIX ngày càng mạnh mẽ. Số
người dân di thực gồm đủ loại: trại chủ, công nhân thất nghiệp, dân di cư
sang Mỹ sau cách mạng 1848 ở châu Âu. Những người này cần đất và cần
tự do, muốn thiết lập trang trại ở miền đất phía tây. Họ chống lại chủ nô
muốn chiếm đất phía tây và muốn biến họ thành nô lệ. Họ bị chèn lấn khổ
sở mặc dù nhà nước bán đất rẻ. Năm 1855, nhà nước bán tới 15 triệu acrơ,
nhưng bọn chủ nô đã ngăn trở việc giải quyết vấn đề ruộng đất theo hướng