rất lớn. Nghề làm giấy cũng phát triển, có 2 xưởng lớn ở Quảng Châu, 1 ở
Thượng Hải. Ngành in cũng có nhiều tiến bộ.
Ngoài các loại trên, tư sản dân tộc cũng kinh doanh cả trong các ngành
chế tạo và sửa chữa cầu, lập công ty đèn điện, khai mỏ, công ty vận
chuyển…
Đặc điểm của công nghiệp hiện đại do tư bản Trung Quốc kinh doanh
cũng giống như tư bản các nước là bắt đầu từ công nghiệp nhẹ. Công
nghiệp nhẹ đầu tư ít, quy mô bé, vốn quay vòng nhanh, lợi nhuận nhiều hợp
với khả năng của tư bản dân tộc. Tư bản dân tộc Trung Quốc một mặt phải
dựa vào thế lực nước ngoài về chính trị, kinh tế, kỹ thuật. Nhưng do bị bọn
tư bản nước ngoài kiềm chế rất mạnh nên quyền lợi của tư bản dân tộc có
mặt mâu thuẫn với tư bản nước ngoài. Do vậy họ cũng có khả năng chống
lại bọn tư bản đế quốc.
Sự xâm nhập của kinh tế tư bản bên ngoài và sự phát triển kinh tế tư
bản dân tộc đã thúc đẩy quá trình tan rã nhanh chóng của nền kinh tế tự
nhiên ở Trung Quốc. Đồng thời, sự hình thành và phát triển cao nhân tố
kinh tế mới là tiền đề vật chất cho những xu hướng tư tưởng mới mang tính
chất tư sản ra đời và phát triển.
3. Sự xâm lược của các đế quốc
Từ cuối những năm 60 - 70 của thế kỷ XIX, đế quốc Anh, Mỹ và Nhật
đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược các vùng biên giới ở phía
đông và tây nam Trung Quốc.
Năm 1867, một chiếc tàu Mỹ đụng phải đá ngầm bị chìm ở Đài Loan.
Mỹ vin cớ đó cho rằng nhân dân Đài Loan giết hết thủy thủ của chúng, đã
đổ bộ lên Đài Loan tàn sát nhân dân. Nhưng nhân dân Đài Loan chống cự
rất quyết liệt, buộc chúng phải rút.
Năm 1874, Nhật được Mỹ giúp đánh chiếm Đài Loan, quân dân Đài
Loan đã chiến đấu anh dũng đánh bại bọn Nhật. Mỹ đã đứng ra điều đình