người Trung Quốc, đặc biệt là giai cấp tư sản đã nhận thấy việc giành
quyền xây dựng đường sắt là một điều quan trọng. Đồng thời đòi lại quyền
khai thác hầm mỏ.
Đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh chia xẻ đất đai thuộc địa giữa các đế
quốc càng quyết liệt.
Hiệp ước Tân Sửu đã làm cho nhà Thanh trở thành tên nô bộc trung
thành của bọn đế quốc. Năm 1902-1903 một loạt các hiệp ước buôn bán
được tiếp tục ký kết với các nước đế quốc càng đe dọa Trung Quốc.
Năm 1902, đế quốc Anh mượn cớ hiệp ước trước chưa đầy đủ nên
buộc nhà Thanh ký một hiệp ước mới có lợi cho Anh hơn. Anh được nhập
hàng vào Trung Quốc với mức thuế thấp nhất và hàng hóa chỉ đóng thuế
một lần, được quyền tự do xây dựng công xưởng. Tiếp theo Anh, bọn Mỹ,
Nhật cũng buộc nhà Thanh nhượng bộ nhiều quyền lợi buôn bán cho
chúng. Nhờ những hiệp ước trên, thế lực kinh tế của bọn đế quốc ngày càng
mạnh, chèn ép kinh tế Trung Quốc, Vốn đầu tư của ngoại quốc vào Trung
Quốc ngày càng nhiều. Dần dần, bọn đế quốc nắm hết mạch sống kinh tế
của Trung Quốc. Chúng khống chế hầu hết ngân hàng, nắm toàn bộ thị
trường tiền tệ. Bọn chúng lại có âm mưu đưa vốn vào gây thế đứng trong
các xí nghiệp của Trung Quốc. Chính vì vậy, một khi công xưởng của tư
bản dân tộc Trung Quốc cần tiền, chúng cho vay để thu lợi nhuận, nhưng
điều quan trọng là để có thể qua đó khống chế các công xưởng này.
Đối với quan hệ phong kiến, một số nhà tư bản vốn là địa chủ phong
kiến chuyển thành, đem nguồn thu nhập hoa lợi của ruộng đất đầu tư vào
công nghiệp, nhưng lại thường đem một số tiền sau khi kinh doanh công
xưởng thu được chuyển về mua ruộng đất hay cho vay nặng lãi. Thêm vào
đó, giai cấp tư sản dân tộc Trung Quốc không nắm chính quyền, nên mỗi
khi xây dựng công xưởng, chuyển hàng hóa, mua nguyên liệu, mở rộng sản
xuất v.v… đều phải được chính quyền phong kiến đồng ý và nhờ nó bảo vệ
quyền lợi. Có nhiều công xưởng lớn do quan lại kinh doanh, họ vừa là chủ
tư bản, vừa là quan lại phong kiến. Điều này nói rõ giai cấp tư sản dân tộc