Người Pháp đầu tiên đến Campuchia là cha cố Lui Sơvơrơi trong “Hội
truyền bá niềm tin” ở lại Uđông truyền giáo trong 3 năm (1662-1665).
Nhưng vì Campuchia là quốc gia Phật giáo nên hoạt động của Lui Sơvơrơi
không có kết quả. Tuy vậy, các giáo sĩ của Pháp vẫn kiên trì thâm nhập xứ
sở giàu có này. Họ học tiếng Khơme, dịch kinh thánh và truyền giảng bằng
chính ngôn ngữ bản xứ. Trên thực tế họ trở thành cố vấn cho các đạo quân,
các võ quan và các nhà chính trị thực dân.
Vào năm 1845, khi vua Ang Dương lên ngôi cũng là lúc Campuchia
gặp nhiều khó khăn ở bên trong. Nội chiến liên miên làm cho đất nước rối
ren. Ở bên ngoài, phong kiến Xiêm và phong kiến Nguyễn chèn ép.
Các giáo sĩ người Pháp chăm chú theo dõi tình hình chính trị của
Campuchia. Họ đặc biệt lưu ý tới trạng thái lo âu của vua Ang Dương và
cho rằng đây là cơ hội tốt lôi kéo Ang Dương đi theo Pháp. Họ thuyết phục
Ang Dương cầu cứu Napôlêông III che chở. Được các giáo sĩ làm môi giới,
vua Ang Dương viết thư cho vua Pháp và gửi lễ vật để làm cầu thân thiện
đi lại.
Nhận được thư và lễ vật của vua Ang Dương, Napôlêông III xem đây
là một dịp may để thực hiện mưu đồ biến vùng này thành thị trường của
Pháp. Chính phủ Pháp đã phái đại sứ toàn quyền Dơ Môngtinhi đến
Campuchia để ký hiệp ước với danh nghĩa “Hiệp ước liên minh và thương
mại”. Mục đích chủ yếu của Hiệp ước là để Pháp có khả năng thâm nhập
sâu hơn nữa vào Campuchia, chuẩn bị biến nước này thành thuộc địa.
Phong kiến Xiêm vốn có quyền lợi đặc biệt ở Campuchia, liền gửi thư
đe dọa vua Ang Dương. Sợ triều đình Băng Cốc phật ý, vua Ang Dương
không dám gặp đại sứ Pháp. Âm mưu chiếm Campuchia của Pháp bị ngăn
lại một thời gian.
Tháng 1 năm 1860, Ang Dương chết, con là Nôrôđôm lên nối ngôi,
tình hình nội trị và ngoại giao của Campuchia càng khó khăn. Ngay từ đầu
thế kỷ XIX, thời vua Ang Chan II (1806- 1834), vua Campuchia phải chịu
tấn phong của Xiêm như một chư hầu. Vì vậy, Nôrôđôm tuy lên làm vua ở