Độ là việc nhập những loại đạn pháo bọc bằng giấy tẩm mỡ bò hay mỡ lợn.
Theo tục lệ, người Ấn Độ giáo không ăn thịt bò và người Hồi giáo không
ăn thịt lợn. Vậy mà khi sử dụng đạn, họ phải dùng răng để tháo những giấy
bọc ra nên họ không thể chịu đựng nổi. Một nhóm binh sĩ bị thực Anh bắt
tù đày vì không chịu sử dụng loại đạn pháo đó. Lòng căm phẫn lan tràn
trong quân đội và nhân dân.
2. Cuộc khởi nghĩa năm 1857-1859
Khởi nghĩa bùng nổ. Sự kiện mở đầu cho phong trào đấu tranh giữa
thế kỷ XIX là cuộc khởi nghĩa của quân đội Xipay và nhân dân ở Mirút
ngày 10 tháng 5 năm 1857. Bất mãn trước việc bọn chỉ huy Anh bắt giam
những người lính có tư tưởng bài Anh, ba trung đoàn Xipay cùng nhân dân
nổi dậy cầm vũ khí. Nông dân các làng lân cận thành phố gia nhập nghĩa
quân. Sau khi giết hết bọn chỉ huy Anh, nghĩa quân tiến về Đêli được nhân
dân hưởng ứng, mở cổng thành cho vào. Đồng thời, các đơn vị Xipay và
nhân dân ở đó cũng nổi dậy giành thủ đô về tay mình.
Nghĩa quân tiến về cung điện, tôn đại biểu cuối cùng của vương triều
Đại Môgôn là vương công Bahađua làm đại vương tối cao của Ấn Độ. Điều
đó có ý nghĩa khẳng định nền độc lập của Ấn Độ và các đạo nghĩa quân ở
khắp nơi đều tự đặt mình dưới quyền tối cao của Bahađua. Nhưng quyền
điều hành thực tế nằm trong tay các ủy ban nghĩa quân gồm 6 đại biểu binh
sĩ và 4 đại biểu thị dân.
Tiếp theo Đêli, phong trào khởi nghĩa bùng nổ ở nhiều nơi khác, đặc
biệt là vùng Trung Ấn Độ. Nghĩa quân liên tiếp giải phóng các thành phố
lớn như Aliga (21-5), Lăcnao (31-5), Canpua (4-6), Alababat (6-6)…
Ở Canpua, dưới sự lãnh đạo của Nan Xahip, quân đội và nhân dân nổi
dậy chiếm nhà ngân hàng, kho vũ khí, giải phóng nhà tù và vận động các
đơn vị Xipay khác tham gia chiến đấu. Nông dân và thợ thủ công thành lập
những đơn vị vũ trang đóng vai trò rất tích cực. Trong vòng tháng 6, quân
Anh ở đây phải đầu hàng.