khai sơn. Năm 1690, được Thiên Hoàng Higashiyama (Đông Sơn) tứ
hiệu Phật Trí Hoằng Tế Đại Sư. Năm 1693, viên tịch ở chùa
Ryuumonji, trụ thế 72 năm. Vì biết giải thích tư tưởng Thiền Tông
bằng một thứ tiếng Nhật bình dị cho nên được từ lãnh chúa đến thứ
dân tuyệt đối ủng hộ, lại thêm qua 44 năm đi khắp nơi truyền đạo nên
đã đào tạo đông đảo đệ tử mà có người tính con số đó lên trên 5 vạn.
Ông cũng tích cực dạy dỗ phụ nữ, trong số những người mến mộ ông
có ni sư trưởng Teikan Zenni (Trinh Nhàn Thiền Ni), một nhà hoạt
động tôn giáo năng nỗ. Ông có cả những mối thân giao với những
nhân vật như tăng Tenkei Denson (Thiên Quế Truyền Tôn) phái Lâm
Tế và Kogetsu Zenzai (Cổ Nguyệt Thiền Tài, 1667-1751) phái Tào
Động. Dầu bận rộn đến thế, ông vẫn để lại các tác phẩm như Bàn
Khuê Thiền Sư Pháp Ngữ và Bàn Khuê Thiền Sư Thuyết Pháp. Đứng
trước những thắc mắc của đủ mọi hạng người từ thiền tăng, nho gia
đến thứ dân, ông thường dựa vào tâm cảnh mà mình đạt được, để có
những lời chỉ vẻ đích xác, cực kỳ thân ái và giản dị bằng ngôn ngữ đời
thường. Đó là hình ảnh ông để lại. Lối biểu hiện dù có khi thấp kém
tầm thường nhưng toàn thể đều phảng phất cái phong cách của các
ngữ lục đời Đường.
Mặt khác, thiền sư Manzan Dôhaku (Vạn Sơn Đạo Bạch) đã cùng
với Baihô Jikushin (Mai Phong Trúc Tín, 1633-1707) và một só người
khác có ý muốn lập lại pháp hệ thầy truyền xuống trò ngày xưa của
thời Dôgen vốn đã bị những cơn binh lửa và thăng trầm lịch sử suốt
thời Sengoku làm cho rối loạn hay đứt đoạn. Cuộc vận động của các
ông mang tên là "tông thống phục cổ". Nhân vì cho đến lúc đó khuynh
hướng coi trọng các thế hệ trong chùa hơn là quan hệ sư đệ rất mạnh
mẽ, chức trụ trì mới được thầy truyền thường bị thay đổi một cách dễ
dàng (gọi là việc "ỷ viện dịch sư" nghĩa là dựa vào quyết định trong
chùa mà thay người trụ trì). Do đó chủ trương của Manzan là buộc họ
sửa lại đường lối cho đúng với phương pháp "diện thụ" (truyền thụ
mặt đối mặt giữa thầy và trò) căn cứ trên văn bản Shôbô Genzô
(Chính Pháp Nhãn Tạng) của Dôgen. Vì chủ trương của Manzan đi