thất lạc hay giữ được hình trạng nguyên thủy của một số tác phẩm. Về
sự nghiệp nghiên cứu Thiền Tông, nhất là về lịch sử Thiền Tông buổi
đầu, nó cũng đóng một vai trò không nhỏ nếu không nói là khiến
người ta phải đặt lại toàn bộ vấn đề. Xin đơn cử một số văn bản Đôn
Hoàng quan trọng: Lục Tổ Đàn Kinh, các tác phẩm của Hà Trạch
Thần Hội (684-758) như Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi
Luận, Nam Dương Hòa Thượng Đốn Giáo Giải Thuyết Thiền Môn
Trực Liễu Tính Đàn Ngữ, Nam Dương Hòa Thượng Vấn Đáp Tạp
Trưng Nghĩa, các cuốn đăng sử của Bắc tông như Lăng Già Sư Tư Ký
và Truyền Pháp Bảo Ký và các tác phẩm cương yếu của Ngưu Đầu
Tông như Tuyệt Quán Luận.
Sự phát hiện và giới thiệu những tác phẩm của Thiền Tông buổi
đầu này đã khơi gợi lên sự hứng thú đối với các ấn bản hoặc sao bản
các kinh sách ngày xưa được truyền qua Triều Tiên và Nhật Bản. Nhà
nghiên cứu Suzuki Daisetsu đã ấn hành Hưng Thánh Tự Bản Pháp
Bảo Đàn Kinh và Đại Thừa Tự Bản Pháp Bảo Đàn Kinh (1933, 1940).
Việc này đã làm giúp cho việc nghiên cứu lịch sử Thiền Tông buổi
đầu bước được một bước dài. Dựa trên những tư liệu mới này, sau
chiến tranh, Suzuki còn tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu mà thành quả đã
được tom góp lại trong Thiền Tư Tưởng Sử Nghiên Cứu . Đệ Nhị
(1951) và Thiền Tư Tưởng Sử Nghiên Cứu. Đệ Tam (1968).
Khi việc nghiên cứu gặp được thuận lợi như thế thì về mặt chế
độ, tư tưởng lại bị khống chế. Hoạt động của các thiền tăng trong giai
đoạn chiến tranh không có gì đáng nhắc lại. Họa chăng là trong những
tác phẩm của giới trí thức đương thời, ta thấy họ đã dựa vào Thiền như
cơ sở tinh thần để đối địch với thời cuộc.
Khi tình hình càng ngày càng đi vào chỗ tối tăm, khuynh hướng
dựa vào tư tưởng nhà Thiền để tìm một căn cước (identity), một dân
tộc tính cho con người Nhật Bản, được phát triển mạnh. Ta có thể thấy
điều đó tiềm ẩn trong "Chữ Vô của Phương Đông" (Đông Dương Đích
Vô) (1939) của Hisamatsu Shin.ichi (Cửu Tùng Chân Nhất, 1939),