LỊCH SỬ THIỀN TÔNG NHẬT BẢN - Trang 227

[16]

- Vọng Nguyệt (Mochizuki) và Chức Điền (Oda) có lẽ là tên

người chủ biên.

[17]

- Để giản dị hóa, sẽ không để lối đọc bằng tiếng Nhật của các

tên sách kèm theo.

[18]

- Tsuji là một chữ Hán Nhật hay "quốc tự" do người Nhật tạo

ra, có nghĩa là ngã tư đường.

[19]

- Đây là một cuộc tranh chấp thế lực giữa 2 phái phiệt trong

quân đội Nhật. Phái Hoàng Đạo (Kôdôha, ra đời năm) chủ trương
quân đội trực tiếp hành động dưới mệnh lệnh tối cao của thiên hoàng
để thay đổi cơ cấu đát nước trong khi phái Thống Chế (Tôsei, ra đời
khoảng 1932) chủ trương quân đội khi hành động phải liên kết với tài
phiệt và quan liêu. Phái Hoàng Đạo thất bại trong cuộc chính biến
Niniroku (26/02/1936) và bị phái Thống Chế đoạt hết binh quyền.

[20]

- Ui Hakujiu (Vũ Tỉnh Bá Thọ) là một học giả thực chứng về

Phật giáo, tốt nghiệp Đại học Tôkyô và giáo sư Đại học Komazawa.
Ông từng viết Nghiên Cứu Triết Học Ấn Độ và Phật Giáo Phàm Luận.

[21]

- Từ 1904, Nhật Bản đã can thiệp vào nội tình của Triều Tiên,

đến năm 1910 thì thôn tính nước này và kéo dài sự cai trị cho đến
ngày bại trận.

[22]

- Tính linh (seirei) có nghĩa "cái linh diệu trong tinh thần, tính

tình" hay "tấm lòng". Chữ bắt nguồn từ Nhan Thị Gia Huấn.

[23]

- Nhật Bản Học Sĩ Hội là một cơ sở có qui chế danh dự như

Hàn Lâm Viện, qui tụ những nhà nghiên cứu lỗi lạc, có công lớn, một
lần được bầu vào là trở thành họi viên suốt đời. Trước thế chiến có tên
là Đế Quốc Học Sĩ Viện. Số thành viên là 150, gồm 2 bộ phận: khoa
học nhân văn và khoa học tự nhiên

[24]

- Trung cổ ở đây dùng để tạm dịch chữ chuuse (trung thế) có

nghĩa là thời kỳ từ thế kỷ 12 đến 16 ở Nhật. Trong khi đó, ở Âu Châu,
trung cổ là giai đoạn từ thế kỷ thứ 4 đến 15.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.