Công Uẩn hiểu rõ nội tình suy thoái của vương triều và tình trạng khó khăn,
bế tắc của xã hội. Lên ngôi hoàng đế, Lý Thái Tổ đã nghĩ đến phương sách
cải tạo tình thế, ổn định xã hội, phát triển mọi mặt của đất nước.
Lên ngôi tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), tháng 7 năm Canh Tuất
(1010), Lý Thái Tổ tiến hành dời đô về Đại La. Trước khi dời đô, ông đã hạ
chiếu, có đoạn nhận định về Đại La như sau: "Thành Đại La... Ở giữa khu
vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam - Bắc - Đông -
Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng,
thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết
sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là
chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi
muôn đời"
62
. Ông nói: "Mưu chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn
vạn đời"
63
như việc dời đô của nhà Thương, nhà Chu của Trung Hoa xưa.
Dời đô về Đại La, ông đổi tên là Thăng Long. Tên gọi Thăng Long gắn với
huyền thoại rồng hiện ra khi thuyền của nhà vua đến bên thành. Tên gọi
Thăng Long (rồng bay lên) thể hiện ý chí vươn lên mạnh mẽ của kinh đô,
của đất nước sau khi dời đô; cũng là ý chí, mục đích vươn tới của người
quyết định dời đô.
Với con mắt của nhà quân sự, Lý Thái Tổ hẳn biết rõ điểm yếu của
Thăng Long là trống trải, khó phòng giữ, nhưng tiện lợi lớn cho việc mở
mang, phát triển mọi mặt. Là người có tầm nhìn xa trông rộng, ông nắm
được thời thế đã thay đổi. Sau đại bại trong lần xâm lược 30 năm trước, nhà
Tống không dám hoặc chưa dám lại sang xâm lược. Có chăng là chuyện về
sau. Giờ đây là thời bình, thời của kiến thiết đất nước hùng mạnh, đem lại
cuộc sống yên vui, no ấm cho mọi nhà và cũng là thời của xây dựng cơ sở
giàu mạnh, tạo điều kiện cần và đủ để đánh thắng giặc một khi chúng xâm
lược.
Đó là tư tưởng lớn của nhà quân sự Lý Thái Tổ. Xuất phát từ tư
tưởng đó, sau khi dời đô, cùng với việc xây dựng cung điện làm nơi ở, nơi
làm việc của vua quan, xây dựng chùa chiền thỏa mãn nhu cầu đời sống