tâm linh của xã hội, Lý Công Uẩn và các vua kế tiếp đã xây dựng thành lũy
bảo vệ. Việc làm này được tiến hành mở đầu vào năm Giáp Dần (1014):
"Tháng 10 mùa đông. Đắp thành đất ở Thăng Long, bốn bề xung quanh
người kinh thành đều sai đắp thành đất cả"
64
. Thành đất ở đây dựa trên cơ
sở tận dụng thành Đại La cũ, gọi là thành Đại La hay La Thành; bao bọc ở
ngoài cùng. Bên trong có Long thành (Cấm thành) được bảo vệ nghiêm
ngặt, là khu cung điện, nơi ở của nhà vua và làm việc của triều đình. Phía
ngoài Long thành đắp vòng thành thứ hai gọi là Hoàng thành hay thành
Thăng Long, có hào và 4 cửa: cửa Tường Phù (Cửa Đông), cửa Quảng
Phúc (Cửa Tây), cửa Đại Hưng (Cửa Nam) và cửa Diệu Đức (Cửa Bắc). Để
canh phòng bảo vệ thường xuyên Hoàng thành, đặc biệt là Long thành có
điện tiền cấm quân gồm 10 quân, mỗi quân 200 người, gồm 2.000 người
đều thích tên trán 3 chữ "Thiên tử quân". Đến thời Lý Thánh Tông (1054-
1072), số cấm quân có tới 3.200 người
65
.
Thành Đại La ở ngoài cũng mở nhiều cửa, có quân lính tuần tra
canh gác. Sử cũ còn ghi lại các cửa Triều Đông (dốc Hòe Nhai), cửa Tây
Dương (Cầu Giấy), cửa Trường Quảng (Ô Chợ Dừa), cửa Nam (Ô Cầu
Dền), cửa Vạn Xuân (Ô Đông Mác).
Như vậy Kinh đô Thăng Long, với vương triều Lý không chỉ là
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa mà với sự gia công xây dựng của con
người còn là một thành kiên cố mở đầu thời kỳ thịnh vượng, hùng mạnh
của đất nước.
Nếu như vào thế kỷ X, các nhà quân sự - vua còn dè dặt, né tránh
Đại La thì bước sang thế kỷ XI, tình thế đã đổi khác. Sau hơn ba phần tư
thế kỷ phục hưng xây dựng, đất nước đã phát triển; chính trị đi vào nề nếp,
quân sự, quốc phòng qua thử thách, chứng tỏ sức mạnh trong chống giặc
Lúc này nhà quân sự - vua Lý Thái Tổ có đủ cơ sở đặt niềm tin vào sức
mạnh của quân dân Đại Cồ Việt, quyết định dời đô, đặt bệ phóng cho đất
nước vươn về phía trước. Tiếp theo Lý Thái Tổ, các vua Lý Thái Tông, Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông nối nhau cầm quyền đã xây dựng đất nước Đại