lực phong kiến mới trỗi dậy cát cứ ở vùng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và
Quảng Tây của Trung Quốc) lại âm mưu đánh chiếm nước ta.
Mùa thu năm 930, Vua Nam Hán sai các tướng Lương Khắc Trinh,
Lý Thủ Dung đem quân sang xâm lược nước ta. Do thế giặc mạnh, Khúc
Thừa Mỹ không chống nổi, bị quân Nam Hán bắt đưa về Quảng Châu.
Nước ta lại rơi vào tay nhà Nam Hán.
Vua Nam Hán cử Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu cùng Lương Khắc
Trinh giữ thành Đại La (Hà Nội). Nhưng chính quyền đô hộ nhà Nam Hán
dựng nên chỉ kiểm soát được phủ thành Đại La và một số vùng chung
quanh, quyền làm chủ ở các châu, quận trên thực tế vẫn do các quan lại cũ
của họ Khúc nắm giữ. Nhân dân ta ở các địa phương dưới sự lãnh đạo của
các hào trưởng bí mật tổ chức lực lượng, mưu giành lại quyền độc lập, tự
chủ cho đất nước.
Tháng 3 năm 931, một danh tướng họ Khúc là Dương Đình Nghệ từ
Châu Ái (Thanh Hóa) đưa quân ra vây đánh thành Đại La. Vua Nam Hán
sai Trình Bảo đem quân cứu viện, nhưng quân viện chưa kịp đến thì Dương
Đình Nghệ đã hạ được thành. Quân Nam Hán tan vỡ, tướng giặc Lương
Khắc Trinh bị giết chết, Thứ sử Lý Tiến chạy thoát về nước. Dương Đình
Nghệ đem quân ra ngoài thành đánh tan quân cứu viện, giết chết Trình Bảo,
rồi nhân đà thắng lợi đó, tiến lên quét sạch quân Nam Hán ra khỏi nước ta,
giành lại nền độc lập tự chủ. Dương Đình Nghệ vẫn tự xưng là Tiết độ sứ
như họ Khúc.
Mặc dù bị thất bại, nhưng nhà Nam Hán vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm
xâm lược nước ta. Lợi dụng việc Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ để
đoạt chức Tiết độ sứ và sang cầu cứu, nhà Nam Hán phát binh xâm lược
nước ta lần thứ hai.
Cuối năm 938, vua Nam Hán sai con là Hoằng Tháo đem một đạo
binh thuyền lớn sang đánh chiếm nước ta, đồng thời tự mình dẫn một đạo