nào cũng phải đề cao cảnh giác, suy nghĩ phương sách để giữ nước.
Nguyễn Trãi từng nói rằng: "Trải biến cố nhiều thì suy tính sâu, lo việc xa
thì thành công lạ"; thực tiễn lịch sử đã hun đúc nên những phẩm giá cao
đẹp, ý chí kiên cường, trí tuệ sáng tạo và những tư duy, tư tưởng quân sự
tiến bộ của nhân dân ta. Nhìn tổng quát, tư tưởng quân sự giai đoạn này
hàm chứa những nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất là, tư duy, tư tưởng về chủ quyền dân tộc, ý chí độc lập, tự
chủ tinh thần quyết tâm đánh giặc, bảo vệ và giải phóng quê hương đất
nước. Lòng yêu nước, ý chí độc lập tự chủ đã hình thành rất sớm và trở
thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong ký ức
dân gian còn truyền tụng biết bao câu chuyện phản ánh tinh thần và ý chí
đó. Câu chuyện cậu bé làng Phù Đổng vụt lớn lên đánh đuổi giặc ân, tuy là
huyền thoại, nhưng đã thắm đượm tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm
trong buổi đầu giữ nước. Lời thề của Bà Trưng, Bà Triệu, những câu nói
nổi tiếng của bao vị anh hùng như Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần
Bình Trọng... đã thể hiện tinh thần và khí phách của quân và dân ta trước
họa ngoại xâm. Tiếng hô "đánh" trong Hội nghị Diên Hồng, ý chí quyết
giết giặc "Sát Thát" của quân đội nhà Trần, bài thơ Nam quốc sơn hà, Hịch
tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo... đều toát lên ý chí độc lập, tự chủ, nguyện
vọng hòa bình, tinh thần đánh giặc, giữ nước của ông cha. Đó chính là cội
nguồn của mọi thắng lợi.
Thứ hai là, tư duy, tư tưởng quân sự về xây dựng lực lượng vũ
trang, xây dựng quân đội. Ngay từ thời Hùng Vương - An Dương Vương,
từ thời Bắc thuộc, ông cha ta đã biết dựa vào lực lượng dân binh, hương
binh trong các bản làng, thôn ấp để chiến đấu, để xây dựng quân đội và
nghĩa quân đánh giặc. Các triều đại phong kiến tiến bộ thời kỳ độc lập đều
dựa vào dân, xây dựng lực lượng quân sự nhiều thứ quân mà nòng cốt là
quân triều đình (Thiên tử quân, cấm quân). Tư tưởng xây dựng "quân cốt
tinh không cốt nhiều" là tư tưởng phù hợp với điều kiện dựng nước phải
gắn liền với giữ nước. Tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang theo chính
sách "ngụ binh ư nông", gắn việc binh với việc nông, gắn kinh tế với quốc