phòng, luôn phù hợp với yêu cầu cân đối giữa sản xuất vừa sẵn sàng chiến
đấu. Tư tưởng xây dựng một đội quân "phụ tử chi binh", đã tạo nên sức
mạnh đánh giặc giữ nước trong nhiều triều đại.
Thứ ba là, tư tưởng thân dân, dựa vào dân, động viên toàn dân, cả
nước đánh giặc. Các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến thời Bắc thuộc như
khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan... đã
mang tính toàn dân đánh giặc. Các vị minh quân, hiền thần, các nhà quân
sự nổi tiếng thời Tiền Lê, Lý, Trần đều có tư tưởng thân dân, biết động viên
và tổ chức nhân dân cả nước tiến hành chiến tranh giữ nước. Nguyễn Trãi
cho rằng "Lật thuyền chở thuyền mới biết sức dân như nước" (Phúc chu
thủy tín dân do thuỷ) và đã cùng Lê Lợi "tập hợp bốn phương manh lệ"
khởi nghĩa thành công. Đặt trong bối cảnh lịch sử buổi đầu thời trung đại
thì tư tưởng "khoan thư sức dân", "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" là những
tư tưởng hết sức tiến bộ và chính đó là nguồn gốc tạo nên sức mạnh giữ
nước.
Thứ tư là, tư tưởng xây dựng đất đứng chân - căn cứ địa khởi nghĩa
và kháng chiến. Ngay từ đầu Công nguyên, Cấm Khê (Ba Vì - Sơn Tây) đã
trở thành một căn cứ địa kháng chiến của Hai Bà Trưng. Dựa vào đó, quân
đội của Trưng Vương đã cầm cự với quân Mã Viện trong hai, ba năm liền.
Giữa thế kỷ thứ VI, Triệu Quang Phục đã lập căn cứ ở đầm Dạ Trạch, "làm
kế trì cửu chiến", tạo ra thời cơ đánh thắng quân Lương. Sang đầu thế kỷ
XV, các lãnh tụ của nghĩa quân Lam Sơn đã chọn Nghệ An làm đất đứng
chân để xây dựng và phát triển lực lượng, tiến lên giải phóng cả nước. Như
vậy, từ sớm, ông cha ta đã nhận thức được rằng, muốn khởi nghĩa và kháng
chiến thắng lợi, phải xây dựng căn cứ địa hay đất đứng chân của mình. Có
thể đấy là những vùng có địa hình hiểm trở, thuận lợi cho hoạt động của ta
và gây khó khăn cho quân địch, hay là những địa bàn đất rộng, người đông,
đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là quan điểm, tư tưởng tiến
bộ.