Bấy giờ trời đã tối, Nguyễn Hữu Dật sai quân sĩ buộc rơm cỏ làm đuốc đốt sáng rực
trời ngăn không cho quân Trịnh đến gần; đồng thời tập trung quân sĩ khẩn trương chặt cây làm
kè, dựng ván làm phên, lấy sọt tre đựng đất để đắp vá những chỗ bị đào phá. Sáng ra, quân
Trịnh hết sức bàng hoàng bởi lũy đã được hàn vá lại một cách rất vững chắc rồi, không thể
đánh phá nổi.
Lúc này, chúa Nguyễn trú đóng ở xã Toàn Thắng, nghe tin Trấn Ninh nguy cấp, liền
sai sứ phi ngựa đến hỏi tình hình; Nguyễn Hữu Dật tâu rằng: “Trước kia quân ta đi sâu vào
Nghệ An là đất lạ, quân Trịnh còn không phạm được huống chi nay ta lũy cao, hào sâu, lấy
thế chủ mà ứng phó với khách, lại còn sợ gì"
98
.
Đến mùa đông năm Nhâm Tý (1672), thấy cuộc giao chiến đã kéo dài nhiều tháng mà
vẫn không lấy được Trấn Ninh, chúa Trịnh và chúa Nguyễn thoả thuận lấy sông Gianh làm
giới phân định đất nước thành hai "quốc gia” là Đàng Ngoài và Đàng Trong. Đạo Lưu Đồn và
các lũy Trấn Ninh, Sa Bộ, Trường Dục trở thành bức tường thành vững chắc phân chia
Nam - Bắc.
Cuộc Trịnh - Nguyễn phân tranh đến đây là kết thúc.
Trong cuộc chiến tranh này, những thành lũy mà các chúa Nguyễn dựng nên đã phát
huy tác dụng lớn lao trong khả năng tác chiến của quân đội cũng như thế tương quan lực
lượng của hai bên.
Tóm lại, trong suốt thời gian từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII, trong bối cảnh
các hoạt động quân sự diễn ra liên miên, sự du nhập nhiều kỹ thuật quân sự Tây phương và
những sự quan tâm vượt bậc của các tập đoàn phong kiến cầm quyền đã đem lại cho tư tưởng
quân sự Việt Nam những sự phát triển quan trọng. Trong đó, xây dựng và sử dụng thành lũy
phục vụ trong các hoạt động chiến đấu phòng ngự - phòng thủ trở thành một quan điểm tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình chiến tranh của các thế lực phong kiến cát cứ ở Đại
Việt.
Song, tư tưởng xây dựng thành lũy của triều Mạc, triều Nguyễn giống nhau ở chỗ là
đều phục vụ cho mục đích phòng thủ, phòng ngự và đôi khi, đôi chỗ là cho chiến đấu tiến
công. Còn điểm khác nhau cơ bản lại chính là quan điểm lựa chọn vị trí (địa bàn) để xây dựng
các hệ thống thành lũy đó: nhà Mạc thì chủ yếu xây dựng hệ thống thành lũy ở ngay dinh lũy
trú đóng trực tiếp của triều đình, cụ thể như Đông Đô, Hải Dương, sau đó là Lạng Sơn, Cao
Bằng... mà không chú ý chọn những vùng đất hiểm yếu để xây dựng những công trình phòng
thủ nhằm ngăn chặn, đánh địch từ xa. Do vậy, kết quả tất yếu là khi tuyến (hệ thống) phòng
thủ bị uy hiếp, thất thủ cũng đồng nghĩa với cuộc chiến đã thất bại. Có thể nói, đây chính là
điểm hạn chế trong tư tưởng xây dựng và sử dụng thành lũy phục vụ công cuộc chiến đấu
phòng thủ, phòng ngự để bảo vệ lãnh địa cát cứ của triều Mạc. Ngược lại, chúa Nguyễn lại
chọn các địa bàn hiểm yếu vùng đất Quảng Bình (nơi có sông Nhật Lệ, cửa biển Nhật Lệ,
sông Gianh, địa hình và chất đất thuận lợi cho việc chọn vị trí và đào đắp các thành lũy) để