LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM - TẬP 2 - Trang 141

cả lên đầu người nông dân; trong khi đó, hầu như lực lượng lao động chủ yếu - những người
đàn ông, thanh niên trai tráng đều đã bị bắt lính, thử hỏi nông sản, lương thực sản xuất ra
được hằng năm có đáng là bao. Chỉ như vậy cũng đủ thấy đời sống của người nông dân đói
khát đến mức độ nào. Đó là chưa kể đến nạn đói trầm kha của Đàng Ngoài, khi mà đồng bằng
châu thổ sông Hồng đã bị kiệt quệ từ thế kỷ trước trong cuộc nội chiến giữa triều Lê - Trịnh
với triều Mạc.

Mặc dù vậy, so với Đàng Ngoài thì tình thế ở Đàng Trong còn nghiêm trọng, thê thảm

hơn nhiều. Thích Đại Sán là một người nước ngoài đến sống tại Phú Xuân đã ghi lại chế độ
bắt lính dưới thời cai trị của chúa Minh Vương như sau: “Trong nước (Đàng Trong), trăm thứ
thợ đều do quân làm. Mỗi năm vào khoảng tháng ba, tháng tư, quân nhân đi ra các làng bắt
dân từ 16 tuổi trở lên, những người thân thể cường tráng, đóng gông lại bằng một cái gông tre,
giống như cái thang nhưng hẹp hơn để giải về phủ sung quân. Vào quân đội rồi, mỗi người
chuyên học một nghề, kế phân phái đi theo các chiến thuyền để luyện tập. Có chiến tranh đem
ra đánh giặc, lúc vô sự ở theo vương phủ làm xâu, tuổi chưa được sáu mươi chưa được về
làng cùng cha mẹ, vợ con đoàn tụ; hằng năm thân thích đem quần áo, vật thực đến thăm mà
thôi"

1

. Trong suốt thời gian Trịnh - Nguyễn phân tranh, nhất là những năm tháng tiến hành

chiến tranh giành giật lãnh thổ, nạn thiếu lính là một trong những nguy cơ thường xuyên đe
doạ đến sự tồn vong của các triều đại chúa Nguyễn, bởi gánh nặng xương máu phải dồn lên
mảnh đất hậu phương đã bị "khai thác" đến cùng kiệt cả về nhân lực và vật lực. Chỉ như vậy
cũng đủ để thấu hiểu rằng những thế hệ trai tráng của đất Đàng Trong (nhất là ở Thuận
Hóa - Quảng Nam) đã bị săn lùng, truy đuổi một cách thảm khốc như thể nào bởi chính sách
bắt lính, xây dựng quân đội của tập đoàn phong kiến chúa Nguyễn.

Với chế độ bắt lính và thời gian phục vụ trong quân ngũ gần như hết đời của người

lính (từ 16 đến 60 tuổi), vả lại đây là việc làm trường cửu, nên một hậu quả tất yếu hiển nhiên
là nạn đói cũng trở thành căn bệnh kinh niên ở khắp miền xuôi cũng như miền ngược xứ Đàng
Trong; bởi, lực lượng sản xuất trong mỗi một gia đình, gồm cả những lao động chính và cả
những lao động phụ đều lần lượt bị trưng dụng một cách triệt để cho guồng máy chiến tranh,
đó là chưa kể đến sự vơ vét đến tận cùng những sản phẩm nông nghiệp số lượng rất khiêm tốn
do người dân làm ra để cung cấp cho quân đội và nhu cầu của phủ chúa. Theo bước chân đoàn
quân viễn chinh của chúa Trịnh tiến vào Đàng Trong, Lê Quý Đôn đã phải chứng kiến hết
ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về lối sống xa hoa, trụy lạc của địa chủ, quan lại, quý tộc
ở đô thị. Ngược lại, cũng ở chính những nơi đó, những người nông dân đã phải chịu một cuộc
sống bần hàn nhất trong suốt quá trình lịch sử khai hoang mở cõi - Lê Quý Đôn viết: Trong
cõi hạn và đói, dân xiêu giạt và chết đói rất nhiều... Thuận Hoá luôn mấy năm mất mùa đói
kém, lại phải đánh trận bắt lính không thôi, quân dân lìa lòng sùng sục mong làm loạn... Hình
ảnh người dân nông thôn no ấm, tràn trề sức sống thuở nào vốn đã làm dấy lên niềm tự hào về
quê hương, bản quán thì đến bây giờ đã tan tành trong mây khói chiến tranh cát cứ
Trịnh - Nguyễn.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.