LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM - TẬP 2 - Trang 143

Lâm và Sùng Nghiêm; đồng thời, bắt hàng vạn người thuộc ba huyện Đông Triều, Chí Linh,
Thủy Đường đào sông để chuyển gỗ, xây đường chở gạch ngói phục vụ công trường.

Việc bổ nhiệm các quan lại vào bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương

đều được thực hiện qua việc mua quan, bán tước một cách công khai. Trong khoảng thời gian
từ năm Bính Thìn (1736) đến năm Canh Thân (1740), Trịnh Giang đã bốn lần ra quy định thể
lệ bán quan tước, cho phép quan lại được nộp tiền để được thăng chức, nhà giàu nộp tiền để
được bổ làm quan. Năm Canh Ngọ (1750), triều đình lại đưa ra phép đặt “tiền thông kinh" - ai
đặt 3 quan tiền thì được miễn khảo hạch và coi như trúng sinh đồ. Từ đó, dân chúng gọi loại
sinh đồ này là "sinh đồ ba quan”. Đối với trường thi, việc gian dối, mua bán cũng diễn ra công
khai, phổ biến và trở thành một phương thức kinh doanh làm giàu. Tham ô, hối lộ không còn
là hành động nén lút, tội lỗi mà được nhà nước thừa nhận.

Tất cả những công trình xây dựng tốn kém, cộng với đời sống xa hoa, trụy lạc của vua

chúa, quan lại cùng với việc xây dựng tràn lan những công trình đền đài, chùa chiền - tựu
trung lại đều đổ lên đầu người nông dân phải gánh chịu. Đó là, triều đình phải liên tục tăng
mức thuế cũ và đặt ra những khoản thuế mới. Năm Tân Hợi (1731), Trịnh Giang đánh thuế
vào cả khách hộ và hạng tạp lưu. Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh tăng thêm thuế ruộng
mỗi mẫu hai tiền. Bên cạnh thuế điệu thi hành từ năm Canh Tý (1720), triều đình đặt ra khoản
thu "tiền hộ phân” bổ theo từng hộ và các thứ thuế công thương nghiệp cũng không ngừng
tăng thêm. Thuế nhiều đến mức người nông dân suốt năm bòn xét, chắt chiu, góp nhặt cũng
không thể nộp đủ và tình trạng nợ thuế năm này dồn sang năm khác trở thành phổ biến, chồng
chất lên các gia đình nông dân.

Tình trạng cướp đất, thuế khoá nặng nề không những đã uy hiếp đời sống của người

nông dân mà còn gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp và
công thương nghiệp. Nông dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội bị phá sản, phải lưu
vong. Kinh tế tiểu nông - tế bào chủ yếu của nền kinh tế nông nghiệp bị phá hoại. Đê điều và
các công trình thủy lợi không được tu bổ, củng cố, đồng ruộng bị bỏ hoang hoá ngày càng
nhiều. Còn đối với tiểu thủ công nghiệp, thì như trong Lịch triều hiến chương loại chí, nhà sử
học Phan Huy Chú ghi rõ: Vì sự trưng thu quá mức, vật lực kiệt không thể nộp nổi đến nỗi
người ta thành ra bần cùng mà phải bỏ nghề nghiệp. Có người vì thuế sơn sống mà phải chặt
cây sơn; có người vì thuế vải lụa mà phải phá khung cửi. Cũng có kẻ vì phải nộp gỗ cây mà
bỏ rìu búa, vì phải nộp thuế bắt cá tôm mà phải xé lưới chài, vì phải nộp mật mía mà không
trồng mía nữa, vì phải nộp bông chè mà bỏ hoang vườn tược. Làng xóm náo động. Hậu quả
là, nạn đói kém diễn ra triền miên và thường xuyên. Trong Việt sử thông giám cương mụcghi
rằng: Dân bỏ cả cày cấy. Thóc lúa dành dụm trong xóm làng đều hết sạch, duy có Sơn Nam
hơi khá. Dân lưu vong bồng bế, dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường, giá gạo tăng vọt, 100
đồng tiền không đổi được một bữa ăn. Dân phần nhiều sống nhờ rau cỏ, đến ăn cả chuột rắn.
Người chết đói ngổn ngang, người sống sót không còn 1 phần 10. Làng nào có tiếng là trù mật
cũng chỉ còn lại năm ba hộ mà thôi

4

.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.