Đối với số người may mắn sống sót qua nạn đói phần lớn lại lâm vào tình trạng phá
sản, rời bỏ xóm làng và đồng ruộng phiêu bạt đi kiếm ăn khắp nơi, tạo ra tầng lớp dân lưu
vong với số lượng ngày càng đông đảo. Theo bản điều trần của Ngô Thời Sỹ gửi chúa Trịnh,
thì nửa sau thế kỷ XVIII: 4 trấn ở đồng bằng Bắc Bộ với 9.668 xã thôn, thì có đến l.076 thôn
xã phiêu bạt. Trấn Thanh Hoá có 1.393 xã thôn thì phiêu tán mất 297 xã thôn. Trấn Nghệ An
có 706 thôn xã thì phiêu tán mất 115 thôn xã.
Cũng tương tự như Đàng Ngoài, ở Đàng Trong, việc chiếm đoạt và tập trung ruộng đất
vào tay giai cấp địa chủ trở thành hiện tượng công khai, phổ biến... Nghiêm trọng nhất là ở
Thuận Hóa - Quảng Nam. Địa chủ, cường hào không chỉ tìm mọi thủ đoạn để cướp đoạt
ruộng đất tư hữu của nông dân, mà còn tìm cách xâm lấn dần ruộng đất công làng xã. Chúng
thường viện ra lý do thiếu thuế đóng góp cho nhà nước nên phải bán hay cầm cố đất công, để
rồi qua đó từng bước "hợp pháp hoá" chiếm làm của tư. Đến nửa cuối thế kỷ XVIII, nhiều xã
ở vùng Thuận Hoá, hầu hết nông dân không còn ruộng đất để cày cấy. Theo số liệu thống kê
ruộng đất của chúa Nguyễn vào năm Kỷ Sửu (1769): Thuận Hoá gồm 2 phủ, 8 huyện, 1 châu,
có 155.181 mẫu ruộng cày cấy được và 126.857 dân đinh - bình quân mỗi dân đinh là trên 1
mẫu. Nhưng thực tế, nông dân hầu như không có ruộng đất, phải thuê ruộng đất của địa chủ
với giá cắt cổ: ví như ở Lệ Thủy, Khang Lộc, giá thuê mỗi mẫu từ 3 đến 4 quan lên hơn 6
quan; ở Minh Linh, giá thuê từ 12 đến 20 quan một mẫu. Đối với Gia Định - khu vực đồng
bằng chưa khai phá là bao và phần lớn nông dân phá sản ở vùng Thuận Hóa - Quảng Nam bị
chiêu mộ vào đây phục vụ cho việc khai khẩn đất đai và trở thành tầng lớp nông dân tá điền,
chịu sự bóc lột thậm tệ của địa chủ. Thêm vào đó, việc chăm lo đến các công trình thủy lợi, đê
điều hầu như bị trễ nải, hậu họa bão lũ diễn ra, nạn mất mùa đói kém xảy ra triền miên và
nghiêm trọng.
Bên cạnh việc bị địa chủ cướp đoạt ruộng đất và bóc lột địa tô, nông dân còn phải chịu
một chế độ thuế khoá hết sức nặng nề. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn chép rằng: Ở
Đàng Trong, hằng năm có hàng trăm thứ thuế, mà trưng thu thì phiền phức, gian lận, nhân dân
khốn khổ về nỗi một cổ hai tròng... Pháp lệnh rất phiền, nhân viên trưng thu đốc thúc rất
nhiều, nên dân nghèo thường khổ về nỗi phải đóng góp gấp bội, mà trong thì ty lại, ngoài thì
quan bản đường bớt xén làm cho mất tăm tích, không thể nào kêu cứu được. Sang nửa sau thế
kỷ XVIII, chúa Nguyễn không chỉ tăng thêm số lượng các khoản thu, mà định mức cho từng
khoản thu cũng được nâng lên gấp nhiều lần so với trước. Điển hình như: thuế đò, thuế chợ
tăng gấp đôi; thuế lâm, thổ sản thì cùng với thời gian tăng lên đến hàng trăm thứ khác nhau.
Mỗi khi cần thứ sản phẩm gì thì triều đình tức khắc ban ra ngạch thuế sản phẩm đó. Ví dụ:
năm Kỷ Sửu (1769), quân đội cần nhiều mỡ để lau chùi, bảo quản súng đạn, nhà Nguyễn liền
ban hành chế độ thu thuế mỡ lợn tại các chợ... Ngoài ra, dân Đàng Trong còn phải cấp ngụ lộc
cho quan lại. Dân những xã thực hiện việc cấp ngụ lộc cho quan lại thường được miễn thuế
đinh, nhưng thực tế họ phải nộp tiền và lễ vật cho quan lại rất tốn kém
5
.