Khái quát bức tranh ảm đạm, kiệt sức ở Thuận Hóa - Quảng Nam do nạn vét lính của
chúa Nguyễn, Thích Đại Sán viết: "Dân làng toàn lão nhược. Trai tráng ra tòng quân. Nhà hư
sợ mưa dột. Cây héo mặc sương nhuần. Nỗi khổ nơi làng mạc. Ai tâu lên chín từng”
2
. Như
vậy, nạn đói không phải chỉ do thiên tai đột biến hoặc do thiếu đất đai cấy trồng, mà cũng
chính là do nạn bắt lính và chiến tranh cát cứ của các tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn.
Theo cách nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thì "nạn vét lính và nạn đói là cặp quái thai sinh
ra từ chiến tranh cát cứ, và như một thứ nghiệp chướng, nó luôn luôn trút xuống số phận
người nông dân, đời này qua đời khác"
3
.
Cuộc chiến phân tranh Trịnh - Nguyễn đã đẩy những người lính cùng dòng giống, màu
da vào tình thế trực tiếp hành xử nhau bằng gươm, đao, súng đạn triền miên suốt hàng chục
năm ròng, mà mục đích chỉ là nhằm "phá vỡ sự nguyên vẹn của Tổ quốc, tạo nên những lãnh
địa- quốc gia mới" theo manh tâm của những tập đoàn phong kiến. Cái giá phải trả cho cuộc
chiến huynh đệ tương tàn này như khái quát của Nguyễn Bỉnh Khiêm là "Núi xương, sông
huyết, thảm đầy vơi”.
Song cùng với chiến tranh cát cứ, tình trạng chiếm đoạt ruộng đất, thuế khoá nặng nề
và nạn ăn chơi sa đọa của hệ thống quan lại từ trung ương đến địa phương cũng là nguyên
nhân gây thảm họa khốn cùng cho nhân dân.
Ở Đàng Ngoài, sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất vào tay giai cấp địa chủ diễn ra
công khai, phổ biến và hết sức nghiêm trọng, dưới nhiều hình thức và thủ đoạn khác nhau.
Trước hết là những quan lại, cường hào ở các địa phương chấp chiếm ruộng đất tư của nông
dân, đẩy hàng loạt nông dân tự canh vào tình trạng “trắng tay", phá sản. Đối với ruộng đất
công thuộc sở hữu làng xã, một mặt hằng ngày bị quan lại "gặm nhấm", mặt khác bị triều đình
ban cấp cho quan lại và quân lính "có công với chúa”, nên người nông dân còn đâu ruộng đất
mà cấy trồng. Năm Kỷ Mùi (1739), chính chúa Trịnh phải thừa nhận: Ruộng đất công vì đem
phân cấp cho quân lính nên nông dân không còn có đất để cày. Không chỉ ở đồng bằng, mà ở
cả vùng cao nguyên - nơi an cư của đồng bào các dân tộc thiểu số (mặc dù ở đây vấn đề sở
hữu ruộng đất có những đặc điểm rất riêng), điển hình như Lạng Sơn, các quan lại, địa chủ đã
câu kết với nhau lập các văn khế giả để chiếm ruộng đất của dân (chủ yếu là phần ruộng đất
màu mỡ, thuận tiện canh tác).
Đồng thời với việc cướp đất, triều đình nhà Trịnh cũng tăng cường các biện pháp phụ
thu, lạm bổ vơ vét tiền bạc của dân để xây dựng các cung điện, đền đài nhằm thỏa mãn cho
nhục dục ăn chơi xa xỉ của chúng. Tiêu biểu như năm Giáp Ngọ (1714), chúa Trịnh Cương bắt
dân ba huyện Gia Bình, Lang Tài, Quế Dương tu bổ chùa Phúc Long (Bắc Ninh); năm Đinh
Mùi (1727), triển khai xây dựng hành cung ở Cổ Bi -phủ Kim Thành (thuộc Gia Lâm, Hà
Nội); đồng thời, xây dựng rất nhiều cung điện, đền đài ở các vùng khác nhau phục vụ cho
những cuộc tuần du, săn bắn thường xuyên vô cùng tốn kém. Sang đời Trịnh Giang, các công
trình xây dựng vẫn được tiếp nối với quy mô và tiền của, công sức tập trung vô hạn độ. Năm
Canh Tuất (1730), Trịnh Giang quyết định phá phủ Cổ Bi, lấy vật liệu sửa các chùa Quỳnh