Huệ từng bước được hình thành cùng với quá trình đánh dẹp thù trong, giặc ngoài, bình ổn đất
nước. Theo đó, cơ cấu bộ máy chính quyền trung ương ngoài các võ tướng trong quân đội còn
có các bộ Binh, bộ Hình, bộ Hộ với các chức Thượng thư, Thị lang… Riêng với đất Bắc Hà,
sau khi tiêu diệt các thế lực phản trắc của Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi Vũ Văn Nhậm, Nguyễn
Huệ đã trực tiếp tổ chức lại bộ máy cai quản, với Đại tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn
Lân, Chưởng phụ Nguyễn Văn Dũng, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết cùng các sĩ phu yêu nước
như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích... được giao trọng trách bảo vệ Thăng Long và trông coi,
điều hành mọi hoạt động quân, dân ở Bắc Hà. Đối với các trấn có các chức trấn thủ, trấn hiệp.
Đặc biệt, ở những trấn quan yếu như Lạng Sơn (kề cận Trung Hoa), Thanh Hoá (giáp căn cứ
trung tâm của Bắc Bình vương)... được giao cho các võ tướng tin cậy trông giữ. Cho dù chính
quyền ở Bắc Hà của Nguyễn Huệ vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, song nó đã đóng vai trò "cầm
cương” để ổn định tình hình xã hội, ngăn chặn và trấn áp những âm mưu phản loạn trong
nước và tạo điều kiện thuận lợi để làm nên cuộc đại phá 29 vạn quân Thanh xâm lược vào
mùa xuân Kỷ Dậu (1789).
Trước khi tiến ra Bắc Hà đánh quân Thanh, thuận theo đề nghị của bộ tướng thuộc
quyền là "nên chỉnh vị hiệu để ràng buộc lòng người Nam Bắc rồi sẽ khởi binh”
19
, Nguyễn
Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung, vương triều Tây Sơn - Nguyễn Huệ
chính thức được thành lập - Bắc, Nam trở thành hai nước láng giềng riêng biệt”, nhưng việc
củng cố, hoàn thiện thể chế chính trị được tập trung toàn tâm, toàn lực phải là từ sau cuộc đại
phá quân Thanh, giải phóng hoàn toàn Thăng Long. Theo đó, vương triều Quang
Trung - Nguyễn Huệ gồm: vua Quang Trung, Hoàng hậu Lê Ngọc Hân, Thái tử Nguyễn
Quang Toàn (vua nhà Thanh là Càn Long phong Nguyễn Quang Toàn làm An Nam Quốc
vương thế tử), Khanh công Lĩnh Bắc thành Tiết chế Thủy bộ Chư quân Nguyễn Quang Thùy,
Tuyên công Lĩnh Thanh Hoá Đốc trấn Tổng lý quân dân sự vụ Nguyễn Quang Bàn. Bộ máy
hành chính đầu triều gồm: Tam Công (Thái sư, Thái phó, Thái bảo), Tam Thiếu (Thiếu sư,
Thiếu phó, Thiếu bảo), Đại Chủng Tể, Đại Tư Đồ, Đại Tư Khấu, Đại Tư Mã, Đại Tư Không,
Đại Tư Coi, Đại Tư Lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng Quản, Đại Đồng Lý, Đại Đô Hộ, Đại Đô
Đốc, Đô Đốc, Nội Hầu, Hộ Giá, Điểm Kiểm, Chỉ Huy Sứ, Đô Ty, Đô Uý, Trung Uý, Vệ Uý,
Quán Quân, Tham Đốc, Tham Lĩnh, Trung Thư Sảnh, Trung Thư Lệnh, Phụng Chính, Thị
Trung Đại Học Sĩ, Hiệp Biện Đại Học sĩ, Thị Trung Ngự Sử Lục Bộ Thượng Thư, Tả, Hữu
Đồng Nghi, Tả, Hữu Phụng Nghi, Thị Lang, Tư Vụ, Hàn Lâm…
Đối với hệ thống chính quyền địa phương, Quang Trung cơ bản giữ nguyên hiện trạng
9 đơn vị hành chính thời Lê, gồm: xứ Đông (Hải Dương), xứ Bắc (Kinh Bắc), xứ Đoài (Sơn
Tây), xứ Yên Quảng, xứ Lạng (Lạng Sơn), xứ Thái (Thái Nguyên), xứ Tuyên (Tuyên Quang),
xứ Hưng (Hưng Hoá), xứ Nghệ (Nghệ An); chỉ chia xứ Sơn Nam thành hai trấn: Nam Thượng
(Thượng trấn) lỵ sở là Châu Cầu (nay thuộc Hà Nam), Nam Hạ (Hạ trấn) lấy Phố Hiến làm lỵ
sở; xứ Thanh Hoá được chia thành Thanh Hoá ngoại (mặt Bắc) và Thanh Hoá nội (mặt Nam).
Dưới mỗi trấn được chia thành các phủ. Mỗi phủ lại chia thành nhiều huyện. Mỗi huyện chia