thành nhiều tổng. Mỗi tổng lại chia thành nhiều xã; trong đó, nhiều xã lại chia ra thành các
thôn. Về chức vị quan lại: trấn thì có Trấn Thủ (quan võ) và Hiệp Trấn (quan văn); huyện có
Tri phủ, Tri huyện và các chức Phân tri coi việc kiện tụng, Phân suất coi việc binh lương; tổng
có Chánh tổng, Phó tổng; xã có Xã trưởng, Thôn trưởng
20
.
Qua vài nét khái quát về hệ thống cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền triệu Tây
Sơn - Nguyễn Huệ như vậy cũng đủ cho thấy rằng đây vẫn là hình mẫu cơ bản của một kiểu
chính quyền phong kiến quân chủ quan liêu. Nhưng, do được hình thành từ một cuộc khởi
nghĩa nông dân, nên thành phần quan lại có những nét rất đặc trưng: đó là, bên cạnh một bộ
phận lớn những quan chức vốn là những võ tướng cầm quân, hoặc những quan lại, sĩ phu yêu
nước đã từng phụng sự dưới các vương triều trước đó được trọng dụng bổ nhiệm là bộ phận
quan lại mới được tiến cử hoặc đỗ đạt trong khoa cử dưới thời Quang Trung. Với đội ngũ
quan chức như vậy tuy có hạn chế nhất định về mặt này hay mặt khác, song đây chính là nhân
tố góp phần rất quan trọng vào việc hình thành tư tưởng nói chung, tư tưởng quân sự nói riêng
cho nhà Tây Sơn - nhỏ nhất cũng là loại bỏ được các quan điểm tư tưởng lạc hậu, kế thừa và
phát triển các quan điểm tư tưởng tiến bộ, khẳng định vị trí tư tưởng và tư tưởng quân sự Tây
Sơn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cùng với việc không ngừng củng cố và
hoàn thiện bộ máy chính quyền các cấp, trong suốt thời gian tiến hành khởi nghĩa và chiến
tranh đánh thù trong, giặc ngoài, Tây Sơn - Nguyễn Huệ cũng đặc biệt để tâm chú ý đến việc
thu nạp và trọng dụng nhân tài. Bản thân Nguyễn Huệ thực sự là một nhà vương đạo mang cái
tâm nhân nghĩa bao trùm cả thời đại ông. Minh chứng là, trong Chiến cầu hiền của mình,
Nguyễn Huệ biểu đạt rằng:
"…Trẫm đương để ý lắng nghe, sớm hôm mong mỏi. Thế mà những người tài cao học
rộng, chưa có ai đến. Hay trẫm là người ít đức, không xứng đáng để những người ấy phò tá
chăng? Hay là đương thời loạn lạc, họ chưa thể phụng sự vương bản?
…
Vậy hạn chiếu xuống, quan liêu lớn nhỏ và dân chúng trăm họ, ai có tài năng học
thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được dâng thư tỏ bày công việc. Lời có thể
dùng được thì đặc cách bổ dụng, lời không dùng được thì để đấy, chứ không bắt tội vu khoát.
Những người có tài nghệ gì có thể dùng cho đời, cho các quan văn võ đều được tiến cử, lại
cho dẫn đến yết kiến, tùy tài bổ dụng. Hoặc có người từ trước đến nay giấu tài ẩn tiếng, không
ai biết đến cùng cho phép được dùng những thứ tự cử, chớ ngại thế là "đem ngọc bán rao”
(…).
"Trời đất bế tắc thì hiền tài ẩn náu”!. Xưa thì đúng vậy còn nay trời đất thanh bình,
chính lúc người hiền gặp gỡ gió mây. Những ai tài đức, nên đều gắng lên, để được rõ ràng
chốn vương đình, một lòng cung kính để cùng hưởng phúc tôn vinh"
21
. Chính do vậy, mà kẻ sĩ
Bắc Hà kể đến hàng ngàn người đều về với Tây Sơn - sách Hoàng Lê nhất thống chí viết: Rốt
cuộc chỉ còn lại bảy tám người không chịu ra mà thôi. Đại diện tiêu biểu trong số họ là những: